VẾT MỔ CHƯA KHÂU
Cảm tưởng và chia sẻ.
& toàn văn BẢN CẢI ÁN CAO ĐÀI
Ngô văn Trí
Lời Dẫn:
Từ Sài G̣n, tác giả Ngô văn Trí gởi đến cho chúng tôi bài viết
này với lời nhắn: "Vừa
qua đọc bài viết
Bản-Án-Cao-Đài, Vết-Mổ-Chưa-Khâu của bạn trẻ Nguyễn Trọng
Thương, tôi thấy có được một chút phấn khởi trong ḷng v́ tuổi
trẻ Đại Đạo đă không quay lưng lại với quá khứ đau thương.
Sự việc đă gần như ch́m vào quên lăng, nhưng các bạn trẻ cũng
c̣n để tâm lo lắng. Để cung cấp thêm tư liệu cho mọi người rộng
đường t́m hiểu và suy xét tôi xin cung cấp bài viết Bản
Cải Án Cao Đài của bốn vị sĩ tải CS/HTĐ mà thời ấy ít ai biết
đến trong bài viết Cảm Nhận như đính kèm".
Và trong một lần giới thiệu phần biên khảo của tác giả Huỳnh
Tâm: "Một
khoảnh khắc trong Đạo Lịnh 01", chúng tôi có viết
" Cánh tay vô thần đă cấm
phập nhát dao "Bản Án Cao Đài & Đạo lịnh 01" vào nền tảng và đức
tin Cao Đài. Thời gian qua đi nhưng vết thương vẫn c̣n âm ỉ
máu...".
Mục sư Martin Luther King có câu
"Cuộc đời của chúng ta
kết thúc khi chúng ta im lặng về những điều lẽ ra phải lên
tiếng".
Vậy Ai hay
Chủ-thể nào phải lên
tiếng để hàn gắn một vết thương/vết mổ vẫn c̣n âm ỉ máu và để
cuộc đời của chúng ta không-bị-xem-là-đă-kết-thúc khi chúng ta
im lặng về những điều lẽ ra phải lên tiếng?
Theo tác giả Ngô văn Trí th́
"người
có trách nhiệm và đủ pháp lư trong cuộc mổ sắp tới phải là người
đă đứng mổ khi trước: MTTQVN/TN".
C̣n theo tác giả trẻ Nguyễn Trọng Thương th́
"Ngày
nay ít người biết nhứt là những tín đồ trẻ U40 như tôi. Người
ngoại Đạo có thể không cần biết, nhưng người có tín ngưỡng Cao
Đài cần phải biết để thương Đạo nhiều hơn nếu thấy BACĐ nói oan
cho tiền bối. Ta
phải khâu lại vết thương cho Đạo bằng việc minh oan, hoặc ta kế
thừa MTTQVN/TN lúc ấy để cắt ĺa xóa sạch Đạo Cao Đài trên đất
nước Việt Nam nếu thấy Bản Án Cao Đài nói đúng".
Chúng tôi hoàn toàn chia sẻ ư tưởng trên của hai tác giả Nguyễn
Trọng Thương và Ngô văn Trí. Đó là:
- Chánh quyền Việt Nam mà cụ thể là Mặt Trận Tổ Quốc VN tỉnh Tây
Ninh phải có bổn phận và trách nhiệm lên tiếng sửa chữa những
sai lầm mà ḿnh đă làm nên cách đây 40 năm để hàn gắn lại vết
thương Cao Đài vẫn c̣n đang âm ỉ máu.
- Tín đồ Cao Đài bao gồm cả quư Chức sắc thiên phong Hiệp Thiên
Đài, Cửu Trùng Đài và Phước Thiện đang c̣n tại thế cần phải lên
tiếng về vấn đề này. Bốn mươi năm đă quá đủ cho một cuộc hồi
sinh!
- Ngoài ra cũng nên đề cập đến các vị trong Hội Thánh mới tại
Ṭa Thánh Tây Ninh. Các vị đi một bước là lên xe xuống ngựa, là
tiền hô hậu ủng, là vơng lộng xênh xang. Các vị đă yên ấm trong
cảnh măo cao áo rộng, dinh thự nguy nga, kẻ hầu người hạ mà quên
đi những ân sâu, nghĩa nặng mà chư vị tiền bối đă trải tấm thân
ḿnh ra vun bồi, gầy dựng nền Đại Đạo để cho các vị có được ngày
hôm nay. Có lần nào các vị đề cập Bản Án Cao Đài với chánh quyền
chưa? Hay chí ít, có lần nào các vị đối diện với chính ḿnh bằng
những trăn trở v́ những oan khuất mà chư vị tiền bối đă gánh
chịu trước gọng ḱm vô thần? Xin đừng ngoảnh mặt. Xin đừng vong
ân, bội nghĩa. Hăy sống cho một cuộc đời đáng sống!
- Sẽ là một thiếu sót nếu không đề cập đến các bạn đạo đang dự
tính tham dự Đại Hội Nhơn Sanh 2017 tại Ṭa Thánh Tây Ninh sắp
tới. (Chưa đề cập đến tính chính danh, tính phù hợp luật pháp
Đại Đạo trong các kỳ Đại Hội Nhơn Sanh mà vốn dĩ đă không có
trong các kỳ Đại Hội dưới thời của ông Đầu Sư Nguyễn Thành Tám).
Hành trang mà các bạn mang đến trong kỳ Đại Hội này là ǵ? Chắc
là để cầu mong cho măo thêm cao, cho áo thêm rộng? Hoặc là những
kiến nghị vô thưởng vô phạt, có cũng được mà không cũng chẳng
sao? Có bao giờ các bạn đau buồn, trăn trở v́ những bức hại,
những oan khuất mà Bản Án Cao Đài của Mặt Trận Tổ Quốc tỉnh Tây
Ninh đă thô bạo áp đặt lên chư vị Chức sắc tiền bối, để từ đó
kiến nghị lên Hội Thánh của các bạn có cách hành xử phù hợp
và chính danh?
Tóm lại, tất cả chúng ta - những đứa con của Chí Tôn - với Bản
Án Cao Đài, có nên hành động như Nguyễn Du nói:
"Cũng đành nhắm mắt đưa chân, Thử xem con tạo xoay vần đến
đâu!".
Hay là tin vào lời dạy của
Đại Từ Phụ:
"Tâm trí các con lay động ưu tư tức là Thần Thánh dẫn đường để
chỉ cho con ra khỏi lối mịch mờ; nhưng đặng cùng không, nên hay
hư là tại nơi tấc thành của mỗi đứa....Nếu cứ than khó dừng bước
th́ dầu sự dễ cũng không thành tựu. Mạng Trời đă định nhưng có
sức của các con mới đặng kết quả hoàn toàn".
Florida, ngày 23-7-2017
Nhất Nguyên.
-----oooOooo-----
"Bản-án-cao-đài" năm 1978 ch́m trong quên lăng theo thời gian.
Cũng từ bản án đó làm một nền Đại-Đạo của Ông Thầy Trời phải
chịu lắm nỗi truân chuyên. Không người tín đồ Cao Đài nào khi
nhắc đến bản án mà không buồn! Tuy ch́m sâu trong kư ức nhưng nó
vẫn c̣n đó nỗi xót xa không dứt. Từ lâu rồi không c̣n ai nhắc
đến bản-án nữa. Nay
có một bạn trẻ lại đề cập đến trong một bài viết. Th́ ra không
phải tuổi già trong cuộc mới đau, mà thế hệ sau này cũng biết
đau.
Sau khi đọc bài viết “Bản
Án Cao Đài - vết mỗ chưa khâu” của bạn trẻ Nguyễn Trọng
Thương trên Diễn Đàn Về Nguồn tôi thấy niềm đau xót 40 năm qua
vẫn c̣n trong ḷng như mới xảy ra ngày nào. Từ đó tôi nhớ đến
một điều: hiện tượng bác sĩ đă bỏ quên trong ổ bụng bệnh nhân
dụng cụ giải phẫu cũng thường hay xảy ra. Vết mỗ dù không khâu
th́ thời gian dù có lâu nhưng nó vẫn không thể tự lành. Tuy
ngoài da có vẻ ổn nhưng bên trong c̣n hành hạ đau nhức v́ c̣n dị
vật trong ấy. Không lẽ cái đau này phải chịu nhiều đời nhiều
kiếp?
Bản Án Cao Đài đă tuyên xử chư tiền bối của Đạo 40 năm qua. Việc
này giống như vị bác sĩ đă phẩu thuật nhầm cho một người không
có bệnh. Vết thương mỗ ấy đă 40 năm rồi cũng chưa được may lại.
Nay có vẻ cũng tự kéo da non, nhưng bên trong th́ c̣n mạch lươn
máu mũ chưa tẩy sạch. Đă mỗ nhầm lại để quên trong ổ bụng của
bệnh nhân “Đạo Cao Đài”
một con dụng cụ phẫu thuật (đó là HĐCQ) vốn đă không tương thích
với cơ địa người bệnh th́ làm sao không đau? Người có nhóm máu O
lại chuyền nhóm A vào th́ làm sao cơ thể có thể dung nạp được.
Dị vật trong cơ thể Đạo như thế, ai là người phải tái phẩu thuật
để lấy vật lạ ấy ra?
Tôi nghĩ,
người có trách nhiệm và
đủ pháp lư trong cuộc mổ sắp tới phải là người đă đứng mổ khi
trước: MTTQVN/TN. Sau khi mổ xong phải may lại cẩn thận
chăm sóc cho vết thương mau lành và cuối cùng cấp giấy ra viện
cho bệnh nhân.
Nếu bác sĩ c̣n chần chừ th́ bệnh nhân không chịu nỗi cơn đau,
tức phải tự mỗ v́ không thể để cái mạch lươn c̣n măi trong “cơ
thể Đạo” được.
Cảm ơn bạn trẻ Trọng Thương đă viết lên tâm tư chân thật của
ḿnh để chia sẻ cho các bạn hữu đồng lứa. Tôi không phải tuổi
trẻ, cũng đồng cảm được với ưu tư của bạn trẻ ấy.
Tôi thấy thế hệ trẻ Cao
Đài cần phải biết sự thật Ông-Cha ḿnh đang có một vết thương
như thế. Biết để khâu lại và chữa lành cho tiền nhân.
Một khi đă đọc Bản Án
Cao Đài th́ nhứt thiết phải đọc thêm
Bản Cải Án Cao Đài
của bốn chức sắc Hiệp Thiên Đài thế hệ trước cho đủ hai vế công
bằng để nhận xét. Bốn vị nay đă quá cố hết ba, c̣n một vị gần
100 tuổi, đă làm được một nhiệm vụ lịch sử để lại cho đời sau
hiểu rơ và khách quan hơn sự thật về một bản án oan sai không
phải của Ṭa Án xét xử và cũng không có phạm nhân hầu ṭa trước
đây.
Bản Cải Án Cao Đài
là một bài viết ôn ḥa và kêu oan, đă minh chứng cho sự vô tội
đă giải đáp từng mục một mà bản án đă nêu. Đến nay Bản Án có hết
hiệu lưc hay chưa cũng không ai biết? Người tín hữu chân chính
trọn trung trọn hiếu th́ không thể không chữa lành viết thương
ấy. Thời gian qua đă quá lâu rồi và không biết c̣n đợi đến bao
lâu nữa mới b́nh phục???
Nhơn sanh đă được cán bộ tập trung phổ biến Bản Án để luận tội,
th́ nay nhơn sanh cũng phải có trách nhiệm giải tội, và minh oan
về kết luận oan sai cho chư Tiền Bối.
Người môn đệ Cao Đài Ngọc Đế có tâm, có t́nh không thể làm thinh
đứng nh́n cha ông ḿnh
đang oằn oại đau nhức. Phải khâu lại vết thương cho b́nh phục.
Tôi xin giới thiệu sơ lược với các bạn trẻ toàn văn
Bản Cải Án Cao Đài
của bốn Sĩ Tải HTĐ Nguyễn Thanh Nguyên, Sĩ Tải Huỳnh Văn Hưởng,
Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời và Sĩ Tải Đỗ Hoàng Giảm.
Bản Cải Án Cao Đài đă trần tŕnh và giải đáp gồm tất cả 16 mục.
V́ nó khá dài nên tạm thời tôi sẽ chia ra làm ba đoạn: Giai đoạn
1: khai minh Đại Đạo, giai đoạn 2: Đức Hộ pháp bị bắt đày đi
Madagasca, giai đoạn 3: sau khi khi Đức Hộ Pháp tị nạn lưu vong
sang Tần Quốc.
Cầu nguyện ơn trên ban bố cho ba vị CS/HTĐ cao thăng thiên vị và
yên nghỉ nơi cơi thiêng liêng hằng sống và một vị c̣n sanh tiền
được sức khỏe an b́nh để phù giúp hậu sanh hiểu được nỗi đau của
Đạo Cao Đài để khâu lại và chữa lành.
Nay kính,
Sài G̣n, ngày 23-7-2017
Ngô Văn Trí
----------
BẢN CẢI ÁN CAO ĐÀI
Những Chức Sắc khai Đạo
(phần 1 từ mục 1 đến mục 3)
---------------------------------------------------------
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
(Ngũ Thập Thất Niên)
Toà Thánh Tây Ninh
BẢN CẢI ÁN CAO ĐÀI
Kính gởi :
- Ông Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước Việt Nam- Hà Nội
- Ông Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Việt Nam- Hà Nội
- Ông Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc T. Ương Hà Nội
-
Ông Chủ Tịch Mặt Trận Tổ Quốc Tỉnh Tây Ninh
Kính quí vị,
Nhơn danh Chức Sắc Hiệp Thiên Đài Toà Thánh Tây Ninh, chúng tôi
đứng tên dưới đây :
Sĩ Tải Nguyễn Thanh Nguyên
Sĩ Tải Huỳnh Văn Hưởng
Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời
Sĩ Tải Đỗ Hoàng Giảm
Xin tŕnh bày những việc biến đổi trong Đạo Cao Đài Toà Thánh
Tây Ninh, sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Vào khoảng tháng 11 năm 1978, Đạo Cao Đài trải qua một cuộc
khủng hoảng trầm trọng nhứt trong lịch sử Đạo, do Bản án của Mặt
Trận Tổ quốc tỉnh Tây Ninh đề ngày 20-9-1978, lên án các bậc
tiền bối có công khai sáng mối Đạo là tay sai của thực dân Pháp,
phát xít Nhật, Đế quốc Mỹ, như quư ông Ngô Minh Chiêu, Lê Văn
Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc …
Một văn kiện tố giác sở hành của các vị tiền bối Cao Đài không
có chứng tích xác thật, ghép thành một “Bản án ” không có phiên
toà nào xét xử, và người bị cáo là những vị đă qua đời từ
lâu.Bản án này đem ra triển khai làm đề tài học tập cho chức sắc
cao cấp, trung cấp, tiểu cấp đến các Bàn trị sự và tín đồ nam nữ
tại vùng Thánh Địa Toà Thánh Tây Ninh.
Trong các buổi học tập, có nhiều vị trong các cơ quan Ban Bộ của
Đạo cải chính Bản án rất hữu lư, nhưng Mặt trận tổ quốc tỉnh Tây
Ninh bắt lập kiến nghị một chiều để khắc phục những vị có trách
nhiệm trong Hội Thánh Cao Đài và toàn Đạo.
Nếu căn cứ theo Bản án để làm phương tiện bài bát, tố cáo những
vị lănh đạo tôn giáo một cách vô cớ, chẳng những không làm tổn
thương đến uy danh của Đạo, và ngược lại làm tổn thương cho
người sáng tác ra nó. V́ Đạo Cao Đài đă từng phổ truyền ra quốc
tế, được đại biểu các nước hoan nghinh giáo pháp trong những kỳ
Hội nghị quốc tế tôn giáo tại :
-
Barcelone (Tây Ban Nha) năm 1934
-
Luân Đôn (Anh Quốc) năm 1936
-
Glasgow (Anh Quốc) năm 1937
-
Ba Lê (Pháp Quốc) năm 1939
-
Lavsama () năm 1948
-
Haywards Heath năm 1950
- Stockholm
(Thuỵ Điển) năm 1951
-
Bruxelles (Bỉ) năm 1951
- Casablanca
(Maroc) năm 1952
-
Montreuse (Thụy Sĩ) năm 1954
-
Đông Kinh (Nhật) năm 1955...vv …
Chúng tôi, những tín hữu kỳ cựu, những chức sắc của Hiệp Thiên
Đài, cũng là những người thừa kế thi hành Chánh sách Hoà B́nh
Chung Sống của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc từ thỉ chí chung. Xin
tŕnh bày những nhận thức sau đây mệnh danh là : “Bản Cải án Cao
Đài ” để Chánh quyền Trung ương và Mặt trận Tổ quốc tỉnh
Tây Ninh rộng đường xét lại.
I. NGUYÊN DO XUẤT HIỆN ĐẠO CAO ĐÀI
Vào năm 1925, một số người trí thức ở Sàig̣n thường tụ họp để
“xây bàn, ” một phương tiện tiếp xúc giới vô h́nh phát xuất từ
bên Âu Châu vào cuối thế kỷ thứ 19. Chẳng những Âu Châu biết
thông công với cơi vô h́nh bằng phương pháp này, mà Trung Hoa đă
biết sử dụng từ thuở xa xưa và hiện đại nhất là Phái Minh Đường,
Minh Lư … Vào trào Măn Thanh, năm 1848 ở Hoa Kỳ, phong trào t́m
cơi vô h́nh bằng cách “xây bàn” rất được thạnh hành. Ở Nhật, Đạo
Oomoto cũng đă sử dụng “cơ bút ” từ khoản năm 1894. Năm 1284, ở
Việt Nam, đời vua Trần Nhân Tôn các thân hào, nhân sĩ biết dùng
cơ bút thỉnh giáo cơi vô h́nh về việc trị nước nên mới được
thạnh trị.
Ở Saigon lúc bấy giờ, phần đông các vị có tâm hồn yêu nước, tham
gia Thiên Địa Hội và phong trào Đông Du của hai cụ Phan Bội Châu
và Cường Để. Sau khi, cụ Phan bị bắt từ Trung Hoa đưa về nước
quản thúc ở Huế th́ sự hoạt động các phong trào gặp bế tắc. Các
nhà trí thức ái quốc mới dùng phương tiện “xây bàn” tiếp xúc
cùng các chơn linh làm nguồn an ủi, nên có những cuộc xướng hoạ
thơ văn giữa hai giới vô h́nh và hữu h́nh.
Trong số các Đấng vô h́nh, có một Đấng xưng danh AĂÂ được các vị
kính mến hơn hết. Nhân dịp đêm kỷ niệm Chúa giáng sanh năm 1925,
Đấng AĂÂ xưng danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Đạo
Cao Đài xuất hiện từ đó.
Cũng do huyền diệu này, Đức Cao Đài đă thâu nhận người môn đệ
thứ nhất là Cụ Ngô Minh Chiêu và dạy cách thờ “Thiên Nhăn” hồi
Cụ c̣n làm Tri phủ chủ quận Phú Quốc năm 1919.
Ở thế kỷ 20, nhân loại tranh đua về mặt văn minh vật chất, tinh
thần Đạo giáo càng ngày càng lu mờ, mấy ai hướng về đạo đức tinh
thần trong lúc mạnh được yếu thua, khôn c̣n dại mất. Việc khai
Đạo Cao Đài trong hoàn cảnh như thế làm cho các vị rất ngạc
nhiên, ngoài trí phàm của mọi người. Cuối cùng, trước sự giảng
dạy mạch lạc và quy cũ cùng nhiều huyền diệu hiển hách của Đức
Thượng Đế, chư vị chịu nhận làm môn đệ, thể Thiên hành Đạo và
truyền bá Tân tôn giáo.
Ngoài Đấng Cao Đài, c̣n nhiều Đấng Thiêng liêng khác giáng cơ
cho thi văn đượm mùi quốc sự, giục thúc tinh thần yêu nước của
mọi người và tiên tri nước Việt Nam ngày gần đây sẽ thoát ách lệ
thuộc, nên ai ai cũng vui ḷng hả dạ.
Đức Cao Đài c̣n cho biết đây là Quốc Đạo, ban cho một dân tộc
yếu hèn thường bị trị, nhưng tinh thần đạo đức súc tích dồi dào,
thấm nhuần tinh ba của ba tôn giáo lớn nước ngoài là : Nho,
Thích, Lăo.
KẾT LUẬN
Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đến khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại nước
Việt Nam với phương pháp tân kỳ là huyền diệu Cơ Bút, một phương
pháp phổ thông trong thế kỷ 20, có tánh cách khoa học huyền linh
Thiên Nhân giao cảm chớ không phải dị đoan mê tín theo thuật
chiêu hồn của đồng, cốt, bóng, chàm …
Trước ngày khai Đạo, do nơi huyền diệu này đă có nhiều nước trên
thế giới tiên tri về sự xuất hiện của Đạo, điển h́nh một vài nơi
như Đạo Minh Sư thời nhà Thanh bên Trung Hoa có truyền lại hai
câu :
“Cao như Bắc khuyết nhân chiêm ngưỡng
Đài tại Nam phương Đạo thống truyền”
Đạo Omotoo bên Nhật, cơ bút mách bảo cho tín đồ biết ở Việt Nam
vừa xuất hiện một nền tôn giáo mặc áo trắng, thờ con mắt trái,
biểu hiện Thái dương hệ và dạy hăy sang Việt Nam t́m liên lạc.
Chư vị ấy đă đến tiếp xúc nhiều lần với Toà Thánh Tây Ninh
Như vậy, tôn giáo Cao Đài không phải ngẫu nhiên xuất hiện thoát
thân trong mê tín dị đoan hoặc người phàm bày vẻ, mà do Đức
Thượng Đế sáng lập với tôn chỉ “Diệt mê tín, thực hiện chân lư ”
(lời dạy trong Thánh ngôn Hiệp tuyển của Đức Thượng Đế).
II. ĐẠO CAO ĐÀI VÀ THỰC DÂN PHÁP
Lá đơn đề ngày 29 tháng 9 năm 1926 gởi qua Chánh phủ Pháp xin
phép khai Đạo. nước Pháp Cộng Hoà với mục tiêu “Tự do-B́nh
Đẳng-Bác ái ” đă cho phép khai mở Đạo Cao Đài ở Việt Nam. người
Pháp tự hào nước họ tiến bộ từ sau cuộc cách mạng 1789, nên phải
thực hành điều khoản “Tự do Tín ngưỡng ”. C̣n âm mưu diệt Đạo
thuộc phần nhà cầm quyền thực dân Pháp ở Đông Dương.
Chúng tôi nói điều này v́ không muốn “quơ đũa cả nắm ”, chúng
tôi am hiểu rằng có những người Pháp tiến bộ, ư thức minh chánh
Dân chủ và Tự do, mà cũng có người Pháp mang nặng tư tưởng thực
dân lạc hậu.
Chánh quyền thực dân Pháp phá Đạo Cao Đài do các nguyên nhân sau
đây :
1. Đạo mới khai mở mà số tín đồ rất đông, chưa đầy một năm số
người nhập môn kể hằng triệu. Ngoài người Việt Nam c̣n có người
Miên, Lào, Pháp, Nhật, Trung Hoa, Xiêm, đặc biệt là đồng bào
Thượng ở vùng rừng núi Hớn Quản mà từ lâu người Pháp không
thuyết phục được, nay lại theo một vị chức sắc đi bộ về Toà
Thánh hàng ngàn người nam nữ và trẻ nhỏ, mang theo dao mác để tự
vệ theo thói quen của họ. Chánh quyền thực dân Pháp hốt hoảng,
tố cáo Đạo Cao Đài làm giặc và buộc Đạo biểu họ trở về rừng núi
của họ.
2. Đạo Cao Đài chủ hướng bảo trọng quốc hồn, quốc tuư là đạo đức
tinh thần của Tổ Tiên lưu lại. Đạo dạy thờ cúng Tổ Tiên không
chấp nhận phong tục ngoại lai nào. Trái lại, người Pháp chủ
trương đem văn minh Cơ Đốc giáo làm nền tảng cho xă hội Việt Nam
mới, phù hợp với văn minh Châu Âu, đánh đổ tinh thần phục hồi
văn hoá cổ truyền Việt Nam của Đạo Cao Đài.
3. H́nh thức tổ chức Đạo Cao Đài giống như một Chánh phủ. Người
thực dân Pháp tố cáo Đạo Cao Đài lập “Chánh phủ trong một Chánh
phủ” (un Etat dans un Etat)
4. Đạo Cao Đài là một ổ cách mạng theo lời tố giác của thực dân
Pháp. v́ phần đông những vị có nhiệm vụ truyền bá Đạo đă gia
nhập các phong trào cách mạng lúc bấy giờ như : Thiên Địa Hội,
Cần Vương, Đông Kinh, Nghĩa Thục, Đông Du, v.v…
Do đó, mà từ năm 1926 đến ngày Pháp bị đảo chánh (năm 1945), Đạo
Cao Đài chịu biết bao khốn khổ. Những cuộc bắt bớ giam cầm xảy
ra khắp nơi. Việc tụ họp cúng kiến tại Thánh Thất bị hạn chế
không quá 15 người. Những cuộc Khai Đàn, Thượng Tượng bị lính
kín, c̣ bót hay du côn ngăn chặn phá rối, mặc dầu người tín đồ
Cao Đài vẫn làm lành lánh dữ, không làm điều ǵ trái với luật
pháp. Tại Toà Thánh và các địa phương Đạo bị áp chế, bị khủng bố
liên tiếp.
Pháp ra lịnh cho toàn cơi Đông Dương tuân theo kế hoạch diệt Đạo
của họ.
- Ở Cao Miên nhà vua kư sắc lịnh đề ngày 22-12-1927 lên án Cao
Đài giáo và ấn định h́nh phạt đối với dân chúng Miên theo Đạo
Cao Đài.
- Ở Ai Lao, ngày 12-12-1932, do lịnh của Khâm sứ Pháp, cảnh sát
đột nhập Thánh thất Cao Đài ở Vạn Tượng, tịch thâu tất cả kinh
sách, ông Giáo Hữu Thượng Chữ Thanh bị bắt c̣ng tay và nhốt xà
lim để trục xuất trở về Nam Vang.
- Ở Bắc Kỳ, ngày 23-5-1932 ông giáo hữu Nguyễn Thái Hoà bị sở an
ninh Hà Nội tống giam rồi đưa xuống tàu trở về Nam.
- Ở Trung Kỳ, có Sắc chỉ “Bảo Đại Tứ Niên Cao Đài bất đắc truyền
bá ” làm cho nhiều Chức Sắc truyền Đạo bị bắt.
- Ở Toà Thánh đầu năm 1934, v́ có mấy vị Đạo hữu chưa kịp đóng
thuế thân mà Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt bị bắt ngồi
tù tại khám đường Tây Ninh, trong khi đó ở Toà Thánh từ chức sắc
đến tín đồ đều nhịn đói mà chờ Ngài.
Trong các vị Toàn quyền Đông Dương, ông Pierre Pasquier là người
cấm đoán và phá rối Đạo Cao Đài hơn hết.
Năm 1934, ông gom góp tài liệu Đạo Cao Đài có liên hệ đến quốc
sự đem về tŕnh chánh phủ Pháp để cấm tuyệt Đạo Cao Đài, nhưng
máy bay chở ông bị nổ tung và ông bị chết cháy theo mớ tài liệu
khi c̣n cách Paris 200 cây số.
Năm 1937, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc viết một bản Phúc Tŕnh dài
gởi cho ông Chủ Tịch Uỷ ban Điều Tra các thuộc địa Pháp, chỉ
trích chánh sách cai trị của Pháp và cho biết sự thất vọng của
cá nhân giục phải tự tử, c̣n sự thất vọng của toàn thể giục làm
cách mạng.
Năm 1941, Đức Hộ Pháp và năm vị Đại Thiên Phong bị Pháp bắt đày
đi Madagascar. Số chức sắc khác bị bắt đưa đi Sơn La, Lao Bảo,
Bà Rá, Côn Sơn, … Toà Thánh bị quân đội Pháp trấn đóng. Thánh
thất các nơi bị đóng cửa, nhà tư của bổn đạo phải dẹp Thiên bàn.
Trong suốt thời kỳ bị Pháp đàn áp, Đạo Cao Đài có những ân nhân
tận t́nh binh vực công lư cho Đạo tại Việt Nam như các vị Luật
Sư Trịnh Đ́nh Thảo, Dương Văn Giáo, Diệp Văn Kỳ, Vương Quang
Nhường. Phía người Pháp có các Luật Sư Lortat Jacob (ở
Việt Nam ) Eugèrre Tozza (ở Pháp)…
Bên Pháp có những Chánh trị gia như quư ông Georges Mandel,
Marius Moutet, nhiều vị Nghị sĩ, sĩ quan, giáo sư, nhà báo như
quư ông Michelis Di Rienzi, Trung tá Alexis Mètsix, Gabviel
Gobron, đặc biệt có Hội Nhân quyền như quư ông Emile Kaln (Tổng
thơ kư Hội Nhân quyền Pháp), Henri Guernut…
KẾT LUẬN
Chúng tôi tŕnh bày sơ lược một ít sự kiện lịch sử Đạo Cao Đài
để mỗi người nh́n thấy được Thánh ư Đức CHÍ TÔN đến lập
Quốc Đạo, phục hồi quốc hồn cho ṇi giống Việt Nam với một nền
chánh trị đạo đức cao khiết ở thế gian, giành lại độc lập cho
Việt Nam về phương diện tinh thần. V́ ṇi giống Việt Nam c̣n ǵn
giữ được tinh thần dân tộc thuần tuư của ḿnh th́ nước Việt Nam
chưa phải mất.
Người Pháp chỉ dùng vỏ lực xâm chiếm đất đai Việt Nam mà thôi,
chớ không thể đem lư thuyết ngoại lai để đồng hoá dân tộc Việt
Nam theo ư của họ muốn. V́ vậy, đối với thực dân Pháp Đạo Cao
Đài là chướng ngại vật, đáng lo ngại cho họ, nên họ thẳng tay
đàn áp từ đầu đến cuối. Trong khi đó Công giáo ở Việt Nam làm
hậu thuẫn cho họ.
Như vậy, Đạo Cao Đài được thành lập do quyền năng của Đức Thượng
Đế, chớ không phải do người Pháp đạo diển như trong Bản án Cao
Đài của Mặt Trận Tổ Quốc tỉnh Tây Ninh tố giác.
III. CÁC BẬC TIỀN BỐI KHAI ĐẠO
Các bậc Tiền bối tuân theo tiếng gọi của Đức Thượng Đế đứng lên
khai sáng mối Đạo buổi ban sơ như các cụ Ngô Minh Chiêu, Lê Văn
Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc … là những người đạo đức uyên
thâm, thương dân mến nước, mà ở miền Nam phần đông đều hiểu biết
qua sở hành của các Cụ.
Vào buổi nước nhà trong cảnh bị lệ thuộc, nhân dân ai cũng học
trường Pháp, đóng thuế cho Pháp, dầu là người công nhân cũng ăn
lương của Pháp. Nhưng khác một điều là các Cụ dám từ quan, lănh
lịnh Đức CHÍ TÔN giáo dân qui thiện, dám chịu khổ hạnh v́ Đạo.
Tinh thần cao trọng của các Cụ là môn đệ xứng đáng đầu tiên của
Đức CHÍ TÔN đă nêu gương sáng lạng và kết khối đức tin của gần 3
triệu tín đồ Cao Đài giáo hiện hữu. Nếu các cụ là những người
giả nhân giả nghĩa th́ Đạo Cao Đài không c̣n tồn tại đến ngày
nay. Đổi lại, ḷng kính mến các Cụ vẫn măi măi lưu truyền trong
huyết quản của 3 triệu con tim tín hữu.
KẾT LUẬN
Bản án cũng đề cập đến các bậc Tiền bối khai Đạo làm tay sai cho
Pháp. Những kẻ cam tâm làm tay sai cho Pháp là để mưu cầu danh
lợi, quyền quí cao sang, mau thăng quan tấn chức để thọ hưởng
mọi thứ ân huệ của Pháp ban cho.
C̣n các bậc tiền bối của Đạo cũng thời làm quan mà nghèo, dám
nghe theo tiếng gọi Thiêng liêng, từ bỏ quan trường, xa lánh
chốn phồn hoa vui thú, lên rừng sâu nước độc, chịu nâu sồng khổ
hạnh, bị nhạo báng khinh khi, vào tù ra khám mà chẳng thối bước
ngă ḷng, hy sinh cho đến trọn đời măn kiếp. Đó là tinh thần đạo
đức cách mạng, biết thương dân mến nước, quên ḿnh để mưu cầu
hạnh phúc chung cho đồng bào chủng tộc.
Tinh thần cao quí của các bậc tiền bối Đạo Cao Đài đáng được tôn
thờ măi măi. Không thể gán ghép chư vị đó là tay sai của Pháp
được.
Xem tiếp: kỳ tới :
Đức Hộ Pháp bị bắt đày Phi Châu và những khó khăn
(từ mục 4 đến mục 9)
Bản Cải Án Cao Đài
Đức Hộ Pháp bị bắt đày Phi Châu và những khó khăn
(từ mục 4 đến mục 9)
IV. THANH NIÊN CAO ĐÀI T̀NH NGUYỆN
ĐẦU QUÂN SANG PHÁP
Tháng 9-1939, Đại chiến thế giới thứ hai bùng nổ giữa phe Đồng
minh và phe Trục Đức-Ư -Nhật, các nước nhược tiểu trong khối Á
Phi ngấm ngầm vùng dậy thoát ách lệ thuộc, phong trào ái quốc
nổi lên khắp Việt Nam. Đạo Cao Đài càng dễ bị chánh quyền thực
dân Pháp t́nh nghi hơn nữa. Họ được biết trước kia người Đức
liên lạc với Việt Nam tầm Đạo Cao Đài. Năm 1936-1937 Hội Thần Bí
Triết học Đức (Eglise Gnostique d’Allemagne) có liên lạc thơ từ
với Toà Thánh Tây Ninh để xin tài liệu kinh sách tham khảo về
Cao Đài giáo. Lúc đó, năm 1939, người Pháp nh́n thấy hầu hết các
nón Đền Thánh, Thánh thất từ Nam chí Bắc đều có gắn chữ Vạn,
theo lối chữ Vạn của Phật giáo gọi là “Chữ Vạn thuận“ đặt thẳng
đứng bốn góc, trùng hợp với dấu hiệu chữ Vạn của Hitler, song
chữ Vạn của Hitler là “Chữ Vạn nghịch ” đặt xéo góc, chớ không
đứng thẳng. Chữ Vạn của Đạo Cao Đài có từ năm 1926, c̣n chữ Vạn
của nước Đức có sau khi Hitler cầm quyền từ sau năm 1930.
Pháp gán cho Cao Đài là một tổ chức của Đức Quốc xă, nên buộc
Đạo triệt hạ chữ Vạn gắn trên nóc Đền Thánh cùng các Thánh thất,
thậm chí chữ Vạn in trong Kinh sách Đạo Cao Đài cũng bị buộc cắt
bỏ.
T́nh thế khẩn trương, nhân dịp Pháp kêu gọi đồng bào Việt Nam
tùng chinh đánh Đức, Đức Hộ Pháp không bỏ qua đưa ra một số
thanh niên sang giúp Pháp gọi là đền ơn đáp nghĩa ḷng tốt của
Pháp đă cho phép Đạo Cao Đài được tự do truyền giáo trong thời
gian qua, trong nhiệm kỳ toàn quyền Robin thay thế cho
P.Pasquier ở Đông Dương (1934-1936) toàn quyền Robin có ra thông
tư cho phép Đạo Cao Đài được truyền bá ở Bắc Kỳ do báo Công Luận
số 6-708, đăng tải ngày 6-12-1934, đại ư “Lâu nay Đạo Cao Đài
rất thạnh hành ở Nam kỳ, chớ không đặng truyền bá ở Trung kỳ.
Nay theo một tờ thông tư của quan toàn quyền Robin th́ Đạo ấy có
Thiên chúa, miễn là không có làm sự ǵ có tánh cách khuấy rối
cuộc trị an th́ thôi ”.
KẾT LUẬN
Khi Đệ nhị thế chiến bùng nổ, nước Pháp là nước Đồng minh bị
nguy khốn nhứt, do Đức Quốc xă gây chiến. Trong t́nh thế đó, Đức
Hộ Pháp đưa một số thanh niên Đạo sang Pháp với tinh thần hào
hiệp giúp Pháp lúc gian nan, một là đáp lại t́nh nghĩa đối với
toàn quyền René Robin khi qua nhận chức ở Đông Dương năm 1934,
cho Đạo được tự do truyền bá suốt Nam, Trung, Bắc, hai là dùng
số thanh niên Đạo làm con tin tại Pháp quốc gây tính thân thiện
để làm dịu bớt phần nào sự phá Đạo của Pháp ở Đông Dương mà Pháp
đang gắn cho Đạo Cao Đài thân Đức là kẻ thù của họ.
Số t́nh nguyện đi chuyến tàu đợt đầu rất đông, nhưng phần nhiều
là người không Đạo Cao Đài, riêng về Đạo Cao Đài chỉ có 160
người.
Qua đợt sau (1), tàu chạy tới Colombo (Tích Lan) có tin điện cho
biết Paris đă thất thủ. Tàu trở lại Saigon và số thanh niên đợt
sau được giăi ngũ trả về với gia đ́nh.
Đức Hộ Pháp tiên liệu như vậy, nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng
ngừng, t́nh thế càng ngày càng thêm nghiêm trọng hơn do thế lực
của Nhật ở Viễn Đông rất mạnh đang thọc mũi dùi xuống Đông Nam
Á, làm cho địa vị của Pháp ở Đông Dương sắp lung lay. Chánh
quyền Pháp tại Việt Nam lúc bấy giờ là toàn quyền Catrousc
(1939-1940) ban hành Nghị định số 72 đề ngày 3-5-1940, cấm treo
cờ phướn có dấu chữ Vạn và từ đó triệt để thi hành chánh sách
diệt Đạo Cao Đài để trừ hậu hoạn. Tóm lại, số thanh niên Cao Đài
t́nh nguyện đầu quân sang Pháp là v́ hoàn cảnh và mục đích nói
trên, chớ không phải tùng chinh để đánh giặc thuê cho Pháp.
V. ĐẠO CAO ĐÀI VỚI NHẬT
Sau khi bắt lưu đày nhiều Chức sắc, sung công tài sản của Đạo từ
Toà Thánh đến các tỉnh, mật thám Pháp c̣n lùng bắt số chức sắc
c̣n lại và những tín đồ mà họ cho là trung kiên. Cho nên nhiều
người phải lẫn trốn về hăng đóng tàu “Nitinan” của Nhật ở cầu
chữ Y Saigon. Phương pháp tự vệ của tín đồ Cao Đài buổi đó không
có cách ǵ khác hơn ngoài một số người sang tị nạn ở Thái Lan.
Ở Hăng tàu Nitinan, tín đồ Cao Đài ban ngày làm công cho Nhật để
sống, ban đêm luyện tập “Nội ứng nghĩa binh ”. Toàn Đạo đề cử
ông Giáo sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh) làm giáo sư Đại
biểu cùng nhiều chức sắc chỉ huy cơ quan hiệp tác. Ông giáo sư
Đại biểu nối liên lạc với Cụ Cường Để vận động phong trào phục
quốc.
Chiến tranh Đại Đông Á đến hồi quyết liệt, người Pháp thấy vận
mạng của họ ở Đông Dương sắp tàn tạ, sớm muộn ǵ cũng bị sụp đổ
do người Nhật mà thanh niên Cao Đài là “Nội ứng nghĩa binh ” nên
truyền mật lịnh khắp các tỉnh, khủng bố và bắt bớ những gia đ́nh
bổn Đạo có thân nhân hiệp tác với Nhật đúng ngày 10-3-1945.
Nhưng 10 giờ đêm 9-3-1945 đại bác của quân đội Nhật tại Sàig̣n
nổ rền báo hiệu Chánh quyền Pháp sụp đổ ở Đông Dương có nội ứng
nghĩa binh Cao Đài vác tầm vông vạt nhọn tham dự.
Sau khi đảo chánh Pháp, người Nhật nhiều lần khuyến khích Đạo
Cao Đài ra nắm Chánh quyền, nhưng người Đạo một mực từ chối, nên
người Nhật phải giao cho Triều đ́nh Huế lập chánh phủ Việt Nam
đầu tiên. Trong danh sách Chánh phủ Trần Trọng Kim lúc đó không
có người nào là Cao Đài.
Mục đích Đạo Cao Đài lật đổ Pháp để cứu nước, cứu Đạo chớ không
tham vọng chánh quyền. Ngày 18-3-1945, Đạo tổ chức một cuộc biểu
t́nh khổng lồ diễn hành qua các đường phố Saigon, và tập hợp tại
Vườn Ông Thượng có các đoàn thể, tôn giáo, Đảng phái chánh trị
tham dự để tuyên bố chào mừng nước Việt Nam độc lập, được thoát
ách đô hộ 80 năm của thực dân Pháp và giao sứ mạng kiến quốc cho
toàn thể quốc dân.
Đối với Pháp và những người Việt Nam làm tay sai cho Pháp từng
sát hại Đạo, khi họ bị lật đổ rồi, không một người nào bị bổn
Đạo trả thù, mà trái lại họ c̣n được cứu giúp lúc nguy biến là
khác.
Tôn giáo chỉ biết sử dụng t́nh thương, không oán ghét Đạo Cao
Đài có bạn chớ không có thù.
KẾT LUẬN
Đạo Cao Đài hợp tác với Nhật để đảo chánh Pháp mở màng độc lập
cho Việt Nam. Nhớ ngày lịch sử 9 tháng 3 năm 1945 là cơ hội tốt
cho cuộc “Cách mạng mùa thu ” và Việt Minh lên nắm chánh quyền.
Đạo Cao Đài không bắt buộc đồng bào theo Nhật. Đạo không cậy dựa
thế lực ngoại bang gây khốn khổ cho quê hương, không gây chia rẽ
nội bộ làm mất tính đoàn kết dân tộc.
Tóm lại, Đạo Cao Đài đă đóng góp xương máu vào công cuộc độc lập
Việt Nam mà không thọ hưởng quyền lợi, danh vị ǵ hết. Đạo Cao
Đài đă không được kể công trong lịch sử Việt Nam cận đại th́
thôi, lại c̣n bị lên án phản động, làm tay sai cho phát xít
Nhật.
VI. ĐẠO CAO ĐÀI VỚI VIỆT MINH
Khi Việt Minh nắm chánh quyền tháng 9 năm 1945, người Đạo Cao
Đài sẵn sàng hiệp tác với Việt Minh, địa phương nào cũng có. Ở
Tây Ninh ông Trương Văn Xương làm Phó Chủ tịch Uỷ ban Hành chánh
tỉnh, ông Đặng Trung Chữ (giáo sư Thượng Chữ Thanh) làm cố vấn.
Do sự sắp xếp của Tướng Nguyễn B́nh Tư lịnh quân Kháng chiến Nam
Bộ lúc đó, hai chi đội 7 và 8 lập chiến khu Bù Lu kháng chiến
với Pháp.
Nhưng đột ngột, Việt Minh lại lên án Cao Đài phản động theo phát
xít Nhật, rồi bao nhiêu việc thảm khốc xảy đến cho Đạo. Mấy ngàn
tín đồ bị giết, nhiều nhứt ở Quảng Ngăi (Trung Việt), Trung Lập
(Nam Việt), làm cho Bổn đạo mạnh ai nấy t́m đường ẩn
tránh. Hai chi Đội 7 và 8 ở chiến khu bị Việt Minh bao vây để
tước khí giới. Ông Giáo sư Đại biểu Trần Quang Vinh bị chặn bắt
tại Chợ Đệm trên đường từ Saigon về Long Xuyên và giải giam tại
Cà Mau cùng với Ông Hồ Văn Ngà, Chủ tịch Việt Nam độc lập Đảng.
KẾT LUẬN
Những việc đă qua không nên nhắc lại làm tổn thương t́nh đoàn
kết nội bộ Việt Nam hiện thời. Lại nữa, buổi nước nhà c̣n phôi
thai độc lập, những sai lầm đáng tiếc xảy ra khó tránh khỏi.
Chúng tôi là người tu hành cố quên đi để hàn gắn những ǵ sứt mẻ
là hay hơn. Nhưng hoàn cảnh bắt buộc chúng tôi phải tŕnh bày ra
đây để thấy rằng Đạo Cao Đài không có tội ǵ hết trước lịch sử
dân tộc Việt Nam cũng như trong lịch sử nhân loại.
VII HIỆP TÁC VỚI PHÁP VÀ THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI CAO ĐÀI
Mấy tháng cuối năm 1945 đến mấy tháng đầu năm 1946 là giai đoạn
nguy khốn nhứt của Đạo Cao Đài. Pháp tàn sát Đạo để trả thù đảo
chánh. C̣n Việt Minh tàn sát Đạo v́ buộc tội theo phát xít Nhật.
Một đàng giết mà có điều kiện dàn xếp, c̣n một đàng giết không
có điều kiện giải quyết.
Sau khi được một số tín hữu ở Cà Mau giải thoát khỏi nhà giam
Việt Minh, ông Trần Quang Vinh về Saigon ẩn náu được vài ngày
th́ bị Pháp bắt giam tại bót Catinat cùng một số chức sắc.Trước
t́nh cảnh bi đát đó, ông buộc ḷng phải nhận lời của Pháp, dàn
xếp với điều kiện phải kêu gọi hai Chi Đội 7 và 8 trở về thành
lập Quân đội tự vệ Cao Đài th́ Pháp sẽ cho Đạo được tự do tín
ngưỡng.
Việc hiệp tác với Pháp buổi đó ngoài ư muốn của mọi người, nên
anh em ở chiến khu c̣n dè dặt chưa quyết định dứt khoát v́ không
hợp nguyện vọng của họ. Nhưng dầu muốn hay không cũng phải gở
rối cho Đạo lúc khó khăn. Anh em chỉ về hiệp tác một số ít, phần
đông ở lại đề pḥng mọi sự bất trắc có thể xảy ra, nếu người
Pháp không thật tâm.
Thoả hiệp kư kết với Pháp ngày 9-6-1946
KẾT LUẬN
Trong khi Đạo Cao Đài đang bị Pháp đàn áp rất nguy hiểm th́ Việt
Minh lại lên án Đạo Cao Đài thân Nhật rồi cũng giết tín hữu, làm
cho Đạo phải lâm vào một hoàn cảnh cùng cực. Cũng như Pháp lúc
trước đưa Đạo Cao Đài đến ngơ bí, dầu muốn hay không cũng phải
hiệp tác với Nhật
Lúc đó hoàn cảnh của Đạo Cao Đài khác với hoàn cảnh Việt Minh.
Đạo Cao Đài có cơ sở chùa chiền trước mắt, Pháp muốn đàn áp lúc
nào cũng rất dễ, c̣n muốn đàn áp Việt Minh rất khó. Cho nên
trong các cuộc hành quân của Pháp lúc đó để tiêu diệt Việt Minh,
Pháp thấy người Việt Nam nào cũng cho đó là Việt Minh tha hồ bắn
giết.
VIII .- ĐỨC HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC
TỪ MADAGASCAR VỀ NƯỚC,
SAU 5 NĂM 2 THÁNG BỊ LƯU ĐÀY
Tháng 8 năm 1946, khi Đức Hộ Pháp trở về nước th́ Đạo đă có quân
đội rồi, một sự việc bất đắc dĩ mà Ngài phải nh́n nhận
Bên trong nội t́nh của Đạo như vậy, bên ngoài t́nh h́nh Việt Nam
rất rối rắm, chiến tranh xảy ra giữa Pháp và Việt Minh. Pháp
chiếm đóng các thị trấn trọng yếu, c̣n Việt Minh rút vô bưng
kháng chiến. Đồng bào vô tội ở giữa bị chết chóc và tiêu tan tài
sản một cách oan uổng trong các cuộc hành quân lùng và diệt địch
của Pháp, nơi nào quân Pháp bị phục kích th́ nơi đó nhà cửa bị
thiêu rụi, con người th́ bị bắn giết bất cả già cả cùng đàn bà
trẻ con, ai họ cũng gán là Việt Minh kẻ thù của họ.
Đứng trước t́nh h́nh nguy ngập đó, Đức Hộ Pháp đă t́m phương cứu
giúp đồng bào bằng cách thương thuyết với Pháp đ̣i độc lập để
tiết kiệm xương máu trong khi vũ khí Việt Nam c̣n thô sơ so với
vũ khí tối tân của Pháp. Với Việt Minh Ngài không bao giờ chủ
trương thù oán mà c̣n khuyến khích khen tặng. Ngài thường nói
với bổn Đạo : “Nếu là cá nhân Phạm Công Tắc khi bị đồ lưu trở về
là vô chiến khu liền. Nhưng với phận sự Đức Hộ Pháp của Đức CHÍ
TÔN giao phó, Ngài không thể làm theo ư muốn cá nhân được ”.
Ngài thường nói tâm trạng của Ngài buổi đó là tâm trạng của một
người thân Hồ mà tâm Hớn. Khi cầm quyền tối cao quân đội Cao
Đài, Ngài chủ trương thả tất cả các cán bộ Việt Minh bị giam tại
Cẩm Giang cùng các nơi khác. Ngoài việc giúp quần áo, tiền bạc,
Ngài c̣n nhắn nhủ chí hướng anh em thế nào cứ đeo đuổi theo chí
hướng đó, miễn chúng ta phục vụ đồng bào Tổ quốc là được.
Ngài cũng bí mật tiếp xúc với các Uỷ viên kháng chiến Nam Bộ.
Ngài cho người đến chiến khu rước Dương Minh Châu về Hộ Pháp
Đường gặp Ngài để bàn tính nhiều việc cần yếu và luôn tiện cho
hay Pháp sắp tấn công căn cứ của ông Dương Minh Châu.
Đến đây chúng tôi xin tường thuật về cái chết của ông Dương Minh
Châu trong trận tấn công của Pháp, theo như lời tŕnh bày của cụ
Hồ Bảo Đạo với Mặt trận Tổ quốc tỉnh Tây Ninh trong buổi hợp
ngày 6-3-Nhâm Tuất (30-3-1982) tại giảng đường Toà Thánh :
“Hồi trước tôi quen biết anh Dương Minh Châu, mà anh Dương Minh
Châu lại là con của ông Thầy dạy học của Đức Hộ Pháp ở Tây Ninh.
Khi nghe tin Pháp sắp tấn công chiến khu của anh Dương Minh
Châu, Đức Hộ Pháp nhờ tôi đến tận chiến khu gặp Dương Minh Châu
cho hay Pháp sắp tấn công, nếu có đủ lực lượng cự nỗi th́ đánh,
c̣n không th́ phải rút để bảo toàn lực lượng. Đức Hộ Pháp c̣n
biểu tôi phải rước anh về gặp Đức Hộ Pháp tại Toà Thánh. Anh
Dương Minh Châu có về gặp Đức Hộ Pháp một đêm tại Hộ Pháp Đường,
nhưng nội dung câu chuyện giữa hai người tôi không biết. Bữa sau
Đức Hộ Pháp cho tôi đưa anh Dương Minh Châu về tới chiến khu, và
khi tôi trở về Toà Thánh chừng vài bữa th́ lại cũng rủi cho anh
Dương Minh Châu là vợ của anh ở Tây Ninh ẳm đứa con nhỏ đến tận
chiến khu thăm anh. Cũng bữa đó mới 3 giờ khuya, quân Pháp tấn
công đến th́ chiến khu đă thu dọn, chỉ c̣n kẹt vợ con anh và anh
ở dưới hầm bí mật. Khi Pháp thấy dọn dẹp trống hết, nó tức tối
dậm chân la hét, th́ thằng nhỏ ở dưới hầm phát khóc. Pháp nghe
được nên mới kéo anh Dương Minh Châu lên bắn chết tại chỗ, cũng
may cho tôi là tôi đă cho hay trước vụ Pháp đến, bằng không chắc
tôi cũng bị nghi oan làm mật thám cho Pháp.”
Đức Hộ Pháp nói : “Ngài đưa quân đội Cao Đài làm trái độn giữa
Việt Minh và Pháp để cứu văn sanh mạng và tài sản cho đồng bào
được phần nào hay phần nấy.” Nơi nào có đồn quân đội Cao Đài th́
được an ninh, Pháp không ruồng bố bắn giết bừa băi như trước
nữa. Ở các nơi, từ Nam ra Trung Việt, chức sắc địa phương can
thiệp với nhà đương cuộc sở tại, bảo lănh những người có liên hệ
với Việt Minh bị bắt, những người bị t́nh nghi, những người chịu
hàm oan. Nhiều trường hợp Việt Minh chánh thức cũng được thả.
Nhưng Việt Minh trước cũng như sau lên án Cao Đài là phản động.
Bộ đội Hoàng Thọ bất ngờ tấn công vô Toà Thánh gây thương vong
cho bảy tín hữu trong nội ô vào chiều tối 30 tết năm Bính Tuất
(đầu năm 1947).
Lúc nào Đạo cũng t́m cách dàn xếp ổn thỏa với Việt Minh như vào
năm 1948, cuộc hợp mặt giữa Cao Minh Căng (Đại diện Việt Minh)
và Tŕnh Minh Thế (đại diện Cao Đài) trên sông Vàm Cỏ Đông, rốt
cuộc Tŕnh Minh Thế bị Cao Minh Căng bắn phải lặn xuống sông
thoát chết.
KẾT LUẬN
Trong việc cứu dân cứu nước, mỗi tôn giáo, Đảng phái khác nhau
về hành động, nhưng nếu t́m hiểu được nhau để không nghịch lẫn
là điều có lợi cho đất nước.
Trong giai đoạn đó, Việt Minh không thể làm như Cao Đài, mà Cao
Đài cũng không thể làm như Việt Minh.
Việt Minh giữ vai tṛ kháng chiến rất thích đáng. C̣n Cao Đài
mang danh Đạo giáo đương nhiên phải thương thuyết để tiết kiệm
xương máu. Việt Minh tranh đấu bằng vơ lực c̣n Cao Đài tranh đấu
bằng tinh thần. Hai bên hỗ trợ lẫn nhau. Nếu Việt Minh không
đánh th́ Cao Đài khó nói chuyện thương thuyết với Pháp để binh
vực đồng bào. Nếu không có Cao Đài làm tấm b́nh phong thương
thuyết th́ cuộc diện sẽ quyết liệt hơn. Một người Pháp chết có
thể đổi lại nhiều sanh mạng người Việt Nam.
Cho nên Đức Hộ Pháp thường nói : Việt Minh đánh để cứu nước, c̣n
Ngài thương thuyết để cứu dân. Trong suốt giai đoạn đó Việt Minh
thắng trận nào Ngài cũng nhắc nhở đến kháng chiến và khen tặng.
Lúc nào Ngài cũng sẵn sàng gặp gỡ anh em kháng chiến để t́m
phương giúp đỡ cách này hay cách khác v́ đó là chí hướng của
Ngài.
Nhân Lễ Kỷ niệm Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đêm
12-10-Nhâm Th́n (1952), khi nghe báo chí loan tin Việt Minh
thắng Pháp ở Na Sầm, sau khi Pháp rút bỏ vùng Cao Bắc Lạng, Đức
Hộ Pháp có ra đầu đề “giải bày trận đánh Na Sầm” cho nhiều Chức
Sắc Cao Đài mỗi người làm một bài thơ. Bài thơ Đức Hộ Pháp như
sau :
Na Sầm chưa phải trọn sơn hà
Khí tiết anh hùng giống Việt ta
Chước quỉ hỏi ai gây khói lửa
Mưu thần nào kẻ dẹp can qua
Tinh trung phục quốc đương tranh đấu
Chánh nghĩa hưng bang khó giải hoà
Thử nghĩ hoàn đồ là nghiệp cả
V́ đâu chia xẻ đặng làm ba.
IX ĐẠO CAO ĐÀI VỚI GIẢI PHÁP BẢO ĐẠI
Trong cuộc diện chiến tranh Việt Nam vào những năm 1946-1947,
chỉ có hai bên Việt Minh và Pháp đánh nhau, c̣n từ Nam chí Bắc
chưa có một Chánh phủ nào công khai hợp thức hoá để thương
thuyết với Pháp, nên Đức Hộ Pháp mới triệu tập một phiên hợp tại
Saigon mệnh danh là “Hội Nghị toàn quốc ” có đông đảo Đại diện
Tôn giáo, Đảng phái chánh trị, nhân sĩ và các tầng lớp quốc dân
Nam, Trung, Bắc tham dự. Trong Hội nghị, Đức Hộ Pháp đưa ra giải
pháp Bảo Đại. Ban đầu phần đông đại biểu không đồng ư, nhưng sau
khi bàn căi sôi nổi, toàn Hội đều đưa tay tán thành theo Đức Hộ
Pháp. Cựu Hoàng Bảo Đại được mời từ Hồng Kông về nước lập Chánh
phủ.
KẾT LUẬN
Mặc dầu Cựu Hoàng Bảo Đại đă cấm đoán Đạo Cao Đài hồi thời Pháp
đô hộ làm cho Đạo chịu nhiều khốn khổ. Nhưng Đức Hộ Pháp chỉ
nghĩ đến quyền lợi của đất nước mà thôi.
Sỡ dĩ, Ngài đưa ra giải pháp Bảo Đại buổi đó là Ngài nhận thấy
rằng nhà Nguyễn đă cùng với Pháp kư hai Hiệp ước 1862 và 1884
giao quyền bảo hộ nước Việt Nam cho Pháp. Nhưng Pháp đă bất lực
không bảo vệ nỗi để Việt Nam rơi vào tay Nhật, đương nhiên hai
Hiệp ước kể trên không c̣n hiệu lực.
Đức Hộ Pháp thường nói : Ngài chủ trương thương thuyết nhưng
Ngài chưa có tư cách pháp lư kư kết với Pháp. Cựu Hoàng Bảo Đại
mới có đủ tư cách đ̣i lại độc lập trong tay Pháp, rồi phải giao
lại cho quốc dân quyết định thể chế cho Việt Nam.
Ghi chú : trong
thời kỳ giải pháp Bảo Đại, Pháp đă kư kết với Việt Nam 3 Hiệp
ước độc lập, nhưng Pháp không thật tâm
-
Thoả ước Hạ Long, kư ngày 5-6-1948
-
Thoả ước Paris, kư ngày 8-3-1949
-
Thoả ước Độc lập, kư ngày 4-6-1954, nh́n nhận nước Việt Nam hoàn
toàn độc lập, có đầy đủ chủ quyền trước Công Pháp quốc tế.
X. QUÂN ĐỘI CAO ĐÀI BỊ PHÁP TƯỚC KHÍ GIỚI
Toà Thánh Tây Ninh hiệp tác với Pháp để thương thuyết hoà b́nh
và độc lập cho nước nhà, chớ không làm tay sai bán nước, nên
người Pháp xét thấy bất lợi cho họ.
Khởi từ năm 1949, lực lượng quân sự Pháp lần lượt tước khí giới
quân đội Cao Đài ở nhiều đồn lẻ tẻ. Sau rốt đến đồn Bến Tranh
(Mỹ Tho) do vài tiểu đội Cao Đài đóng giữ. Quân Pháp gồm mấy
tiểu đoàn có xe thiết giáp trang bị đại liên đến bao vây buộc
đầu hàng và nạp khí giới, binh sĩ trong đồn kháng cự tới cùng.
Khi quân Pháp hạ được đồn th́ binh sĩ Cao Đài nằm la liệt, lớp
chết lớp bị thương, c̣n viên Chỉ huy là vệ uư Phan Hồng Ngự tự
sát chớ không đầu hàng.
Việc xảy ra gây chấn động dư luận trong Đạo lẫn ngoài đời. Đức
Hộ Pháp liền gởi thơ số 147 đề ngày 16-2-1949 cho Uỷ viên Cộng
Hoà Pháp là Tướng De Latour ở Saigon trích lục như sau :
“… Bần Đạo tŕnh bày một dự định hưu chiến giữa đôi bên người
Pháp và người Việt Nam
Bần Đạo xin tuyên ngôn rằng : Cái dự định ấy chỉ có tánh cách về
mặt chánh trị mà thôi ngơ hầu thúc giục sự kư kết hoà b́nh mà từ
lâu dân tộc Việt Nam vẫn tha thiết đợi chờ thêm nữa đặng mau
chấm dứt cuộc đổ máu vô ích và vô nhân đạo của người Pháp và
người Việt. Những dự tính của chúng tôi đều không được các nhà
đương cuộc có trách nhiệm chấp thuận và chỉ trả lời bằng cách
thủ khẩu như b́nh.
Đă thế, những cuộc hành binh tàn sát sanh mạng, khủng bố dân
lành và phá hoại tài sản vẫn tiếp diễn, c̣n trọng hệ hơn nữa là
tước khí giới bất hợp pháp những binh sĩ Cao Đài ở các đồn tự vệ
trong tỉnh Biên Hoà, Gia Định, Mỹ Tho, Cần Thơ…
Sự hiện diện của những tổ chức quân bị của chúng tôi đă đến giai
đoạn không cần thiết nữa.
Chúng tôi xin cho quí Ngài rơ, chúng tôi sẵn sàng giải tán tất
cả những tổ chức binh bị của chúng tôi và giao hồi cho nhà binh
Pháp tất cả những khí giới đă giao chúng tôi.
Chúng tôi sẽ triệt để đứng Trung lập và đó là lập trường sau này
của chúng tôi.
Chúng tôi để cho nhà binh Pháp được tự do định liệu ngày giờ
chúng tôi giao hồi khí giới, ước mong được sớm ngày nào càng tốt
ngày ấy.
Khi tiếp được thơ này, Tướng De Latour ở Saigon hồi đáp sẵn sàng
chấp thuận thâu khí giới lại, song tỏ ư lo ngại bổn Đạo Cao Đài
sẽ bị Việt Minh tàn sát.
Trong thơ kế tiếp Đức Hộ Pháp yêu cầu người Pháp đến sớm chừng
nào càng tốt nhận lănh số khí giới giao trả, c̣n đối với Việt
Minh th́ thuộc về nội bộ người Việt Nam, để tự giải quyết cùng
nhau.
Sau cùng, Tướng De Latour xin lỗi vụ tước khí giới, qui trách
nhiệm cho cấp dưới tự chuyên thi hành và yêu cầu quân đội Cao
Đài giữ lại tất cả khí giới.
Người Pháp nhận thấy Đạo Cao Đài là chướng ngại vật nguy hiểm
cho việc thống trị của họ ở Việt Nam, cần phải giải quyết kịp
thời để tránh những kết quả tai hại.
Với âm mưu sát hại Đức Hộ Pháp, trong thơ của tướng Bondis, Tư
Lịnh Lực Lượng Bộ Binh Nam phần Việt Nam gởi cho ông Gauthier,
Tổng Thơ Kư Cao Uỷ Phủ Pháp ở Đông Dương, đề ngày 1-12-1952 có
đoạn như sau :
“Người Anh đă tổ chức giết ông Gandhi với ư định duy tŕ sự thù
hiềm và sự chia rẽ giữa người Hồi để có thể đặt nền cai trị được
lâu dài hơn. Người Anh đă bị công luận thế giới lên án gắt gao,
c̣n trường hợp của chúng ta ở đây, chúng ta hoàn toàn vô trách
nhiệm. Nếu ông Tổng Thơ kư đồng ư với tôi, th́ tôi sẽ lợi dụng
cánh tay của Dương (Đặng Quang Dương) hoặc của Thành để hoàn
thành thủ đoạn ấy, và sẽ hứa với người nào làm cho chúng ta được
hài ḷng rằng: sẽ cho họ cái địa vị Tổng Tư Lịnh Quân đội Quốc
gia Việt Nam sau khi các lực lượng bổ túc được quốc gia hoá.”
Như vậy, chúng ta sẽ chặt đầu con rắn và khiến cho giáo phái Cao
Đài gặp một hoàn cảnh lộn xộn như giáo phái Hoà Hảo. Khối Cao
Đài sẽ được đặt gián tiếp dưới sự chỉ huy của nhà cầm quyền quân
sự Pháp, và nhứt là dưới sự chỉ huy của người nào đă thi hành
một cách ngoan ngoăn theo mạng lịnh của chúng ta”.
KẾT LUẬN
Người Pháp phát khí giới cho quân đội Cao Đài để làm tay sai cho
họ. Nhưng khi thấy không thể lợi dụng, nhờ cậy ǵ được như ư
muốn, nên họ mới tước khí giới quân đội Cao Đài. Nhà cầm quyền
Pháp đàn áp quân đội Cao Đài không khó, nhưng không dám liều
lĩnh sợ “lưỡng đầu thọ địch ” một bên Việt Minh, một bên Cao
Đài. Thành thử cuộc diện cứ giằng co đưa đến mưu tính của Pháp
diệt Cao Đài bằng cách hiểm độc khác.
Đối với Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, quân đội Cao Đài chỉ để tự vệ
và ǵn giữ an ninh cho đồng bào ở những nơi nào có đồn bót quân
đội Cao Đài. Lại nữa, Ngài dùng quân đội Cao Đài làm hậu thuẫn
để thương thuyết với Pháp. Người Pháp nhiều lần tỏ ra bực dọc
Đức Hộ Pháp, v́ Ngài thẳng thắn vạch rơ tội lỗi của họ đối với
dân tộc Việt Nam. Các Thượng Sứ Pháp như : Leclere, d’Argenlieu,
Pignon, Bollaert, De Lattre de Tassigny … nhiều lần đấu trí với
Ngài đều tỏ ra sút kém lư luận v́ họ là những kẻ xâm lăng không
có chánh nghĩa.
Nghiên cứu vấn đề Cao Đài, người Pháp nhận xét chỉ có Đức Hộ
Pháp làm trở ngại chánh sách của họ. Họ đi đến kết luận là phải
giải trừ Ngài.
Kỳ tới
:
Quân Đội Cao Đài chống Pháp-Đức Hộ Pháp lưu vong
Kim Biên
(từ mục 11 đến mục 16)
Bản Cải Án Cao Đài
Quân Đội Cao Đài chống Pháp-
Đức Hộ Pháp lưu vong Kim Biên
(từ mục 11 đến mục 16)
XI. ĐẠI TÁ TR̀NH MINH THẾ
TRỞ VỀ KHU CHỐNG PHÁP
Trong năm 1951, hàng ngũ quân đội Cao Đài chia thành hai phe :
phe thân Pháp do Trung tướng Thành cầm đầu, phe chống Pháp do
Đại tá Tŕnh Minh Thế chỉ huy. Đại tá Thế dẫn một số đông binh
sĩ trở về khu lập “Quân đội quốc gia Liên minh ” chống Pháp.
Việc này Đại tướng De Lattre de Tassigny có hỏi Đức Hộ Pháp th́
Ngài trả lời là v́ người Pháp không thật tâm thi hành các Hiệp
ước đă kư kết với Việt Nam để giao trả độc lập, nên Thế bất măn
phải ra đi. Việc ra đi của Thế là quyền công dân của Thế, Đạo
không ngăn cản được.
KẾT LUẬN
Người Pháp c̣n mê muội trong giấc mơ tái chiếm Việt Nam lần thứ
hai. Không ngờ một nước có tŕnh độ văn minh như Pháp lại không
biết giác ngộ thời cuộc, chỉ v́ tham vọng mà đánh giá sai lầm
người Việt Nam ngày nay với người Việt Nam hồi thế kỷ
trước. Gần một thế kỷ bị trị, được trui rèn bằng đau thương,
thống khổ, người Việt Nam ngày nay đă lớn mạnh về mọi mặt. Muôn
người như một, dầu với giá nào, họ giành cho được độc lập, không
chịu lệ thuộc nữa.
V́ sự nhận định sai lầm đó, nên kết cuộc người Pháp phải chịu
hậu quả nặng nề, mang danh một cường quốc bại trận. V́ vậy, khi
đi Gèneve năm 1954, Đức Hộ Pháp có để lời cảnh cáo các cường
quốc là không nên “thọc tay vô giỏ cua”.
Người Pháp không thành thật giữ lời hứa nên buộc ḷng Đức Hộ
Pháp ra lịnh cho Đại tá Tŕnh Minh Thế trở vô khu để làm áp lực
với Pháp.
Trong bản án tố cáo Tŕnh Minh Thế vô khu với âm mưu lấn đất của
giải phóng là không đúng. V́ Đại tá Thế chỉ chiếm đóng một nửa
Núi Bà Đen, cốt ư dựa lưng vào núi để chống đỡ các cuộc tảo
thanh của Pháp. C̣n đất của giải phóng từ Nam chí Bắc rộng mênh
mông làm sao lấn được.
XII. ĐỨC HỘ PHÁP ĐI GENÈVE (1954)
Tháng 5 năm 1954, để vận động cho nền độc lập Việt Nam, thể theo
sự thỉnh mời của Đức Quốc Trưởng Bảo Đại cùng Chánh phủ Pháp,
Đức Hộ Pháp chuẩn bị chuyến Âu du sang Pháp.
Trước khi đi, Đức Hộ Pháp có thuyết Đạo tại Toà Thánh kêu gọi
toàn Đạo cầu nguyện cho chuyến đi của Ngài được kết quả, một là
Pháp kư kết Hiệp ước Độc lập cho Việt Nam mà Pháp đă hứa, hai là
đất nước khỏi bị chia đôi, v́ nguồn tin báo chí lúc đó cho biết
thực dân Pháp có ư định chia cắt đất nước Việt Nam tại vĩ tuyến
16, như thế sẽ đưa đến cảnh nội chiến như thời Trịnh-Nguyễn.
Khi đến Paris, Ngài cùng Phái Đoàn có đến cầu nguyện tại nhà thờ
Đức Bà (Notre Dame de Paris), kết quả vấn đề độc lập nước Việt
Nam th́ Pháp đă kư hai bản Hiệp ước Pháp- Việt vào ngày
4-6-1954. Hiệp ước thứ nhứt là hiệp ước Độc lập, Hiệp ước thứ
hai là Hiệp ước liên kết Việt-Pháp mà Pháp có nhă ư làm món quà
tặng nhân dịp lễ Sinh nhật của Đức Hộ Pháp mồng 5 tháng 5 âm
lịch tại Paris.
C̣n vấn đề chia cắt nước Việt Nam, khi nghe tin Pháp và Việt
Minh đă thoả thuận. Đức Hộ Pháp có tuyên bố với Pháp- Tấn xă
A.F.P do báo “Journal d’Extreme Orient” đăng tại Saigon ngày
3-7-1954 “Bằng ḷng cắt hai nước Việt Nam là chấp nhận sự bại
trận. Trong trường hợp Pháp và Việt Minh thoả thuận phân chia
như vậy, th́ chúng tôi những người quốc gia Việt Nam sẽ phải
chiến đấu cả hai mặt vừa đánh Pháp vừa đánh Việt Minh.
(Hồi kư của Trần Tấn Quốc trong Báo Đuốc Nhà Nam)
Lời tuyên bố này làm chấn động dư luận ở Saigon c̣n ở Paris th́
Pháp ngăn lại không cho phát hành v́ cho là quá khích.
Ngày 5-7-1954, Đức Hộ Pháp cùng phái đoàn Cao Đài sang Gèneve
được phái đoàn Việt Minh của Thủ tướng Phạm Văn Đồng mời đến trụ
sở Verosix (Hotel le Cèdre) hội kiến rất thân mật. Thủ tướng
Phạm Văn Đồng có giải thích vấn đề chia đôi cương thổ chỉ là
giới hạn để đ́nh chiến rồi sẽ tổ chức cuộc tổng tuyển cử để
thành lập Chánh phủ thống nhứt cho toàn lănh thổ Việt Nam chớ
không phải chia xẻ. Khi đề cập đến việc phái đoàn Việt Minh có
lần không nh́n nhận phái đoàn quốc gia Việt Nam như ở Hội nghị
Trung giá (Bắc Việt), Thủ tướng Phạm Văn Đồng có nói với Đức Hộ
Pháp “Đức Hộ Pháp thử nghĩ coi, biểu tôi phải nh́n nhận Ngô Đ́nh
Diệm làm sao đặng, v́ họ không có đại diện cho một thực lực, cho
một ai hết. Chớ như Đạo Cao Đài đây có một thực lực hơn mấy
triệu tín đồ và một quân đội mấy chục ngàn người th́ chúng tôi
sẳn sàng tiếp đón và thảo luận tất cả mọi vấn đề.
(nguyên văn nhựt kư chuyến Âu Du của Cụ Hồ Bảo Đạo)”.
KẾT LUẬN
Cụ Hồ Chủ Tịch đồng tuổi với Đức Hộ Pháp, Cụ rất tinh tế, già
dặn kinh nghiệm và nh́n đời đủ mọi khía cạnh.
Tuy không phải là đồng chí, nhưng Cụ hiểu được chí hướng của Đức
Hộ Pháp trong suốt cuộc đời hoạt động Cách mạng. Khi Đức Hộ Pháp
mất, Cụ có đề cử một Phái Đoàn do Đại sứ Ngô Điền hướng dẫn đến
Nam Vang tỏ lời phân ưu với Hội Thánh trên đó. Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam cũng có đại diện đến chia buồn.
Chánh quyền Cách mạng hiện hữu lại lên án Đức Hộ Pháp đủ mọi thứ
tội.
XIII MẶT TRẬN THỐNG NHẤT
TOÀN LỰC QUỐC GIA
Sau Hiệp định Gèneve 1954, t́nh h́nh miền Nam rối ren. Các Đảng
phái rời rạc, c̣n Chánh phủ Ngô Đ́nh Diệm càng ngày càng tỏ ra
độc tài, gia đ́nh trị và tự cao tự đại, khinh rẻ các giáo phái
như những bộ lạc Phi Châu. Lực lượng viễn chinh Pháp c̣n ở
Saigon, nhưng người Pháp không c̣n quyền hành ǵ, chỉ chờ ngày
xuống Tàu về nước là xong. Chánh phủ Ngô Đ́nh Diệm lúc bấy giờ
hoàn toàn theo Mỹ và chống Pháp.
Hồng y giáo chủ người Mỹ Spellman đề ra kế hoạch Công giáo hoá
miền Nam mà Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm là đại biểu. Người bí mật
thi hành các kế hoạch gian hiểm là Đại tá Lansdale, trùm mật vụ
Mỹ (CIA) ở Đông Nam Á. Cho nên Chánh phủ Ngô Đ́nh Diệm nhắm vào
các giáo phái có lực lượng quân sự như Cao Đài, Hoà Hảo, B́nh
Xuyên, … mượn chiêu bài chống cộng, trong đó miền Nam Việt Nam
là thành tŕ ở Đông Nam Á. Người Mỹ và thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm
thi hành kế hoạch tiêu diệt giáo phái,
Thấy được nguy cơ đó, ngày 3-6-1955, Đức Hộ Pháp triệu tập một
Đại hội tại Saigon có mặt đông đủ đại diện các giáo phái, đoàn
thể chính trị và báo chí tham dự để thành lập “Mặt trận Thống
nhứt toàn lực quốc gia ”.
Trong cuộc chiến tại Đô thành Saigon vào tháng 5 năm 1955 giữa
lực lượng B́nh Xuyên và quân đội Chánh phủ Ngô Đ́nh Diệm, Đức Hộ
Pháp có đưa ra Bản Tuyên Ngôn xác định trách nhiệm về ai. Xin
trích một đoạn như sau :
“Sự gây hấn đă xảy ra của quân đội B́nh Xuyên đối cùng chánh phủ
Ngô Đ́nh Diệm là do duyên cớ Quốc trưởng Bảo Đại đă giao cơ quan
Công an và Cảnh sát cho quân đội B́nh Xuyên một cách công khai
hợp pháp, cốt để giữ ǵn Kim Chung buổi nọ. Nay Thủ tướng Ngô
Đ́nh Diệm muốn thâu hồi lại cho chánh phủ lại không dùng phương
hợp pháp mà lại lập riêng Công an và Cảnh sát khác đặng giành
quyền ấy mới gây thành nội loạn xô xát đôi bên bằng quyền lực.
Hại thay, v́ sự xô xát của cơ quan Chánh quyền mà làm cho đồng
bào phải chịu nạn ly loạn tàn hại đến sanh mạng và tài sản.
Lẽ ấy do nơi chánh phủ quốc gia vụng về tổ chức mà lịch sử sẽ đề
án ba người : Quốc trưởng Bảo Đại, Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm và
Thiếu tướng Lê Văn Viễn, chớ “Mặt trận“ chưa hề can phạm vào đó.
Bần Đạo chỉ biết quốc dân cùng Tổ quốc, th́ chỉ có một đường lối
phải theo đuổi là bao giờ cũng ở sau lưng đồng bào và tổ quốc.
Bần Đạo xin thanh minh rơ rệt rằng “Từ khi bị đồ lưu trở về nước
th́ chưa hề có một quyền lực nào chi phối Bần Đạo đặng …”
KẾT LUẬN
Mục đích thành lập “Mặt trận Thống nhứt toàn lực quốc gia” của
Đức Hộ Pháp là tạo cho miền Nam lúc giao thời một sự đoàn kết
chặc chẽ giữa các giáo phái hầu ổn định t́nh h́nh, đồng thời kềm
chế chủ trương độc tài, kỳ thị tôn giáo của chánh phủ Ngô Đ́nh
Diệm.
Người Mỹ và ông Ngô Đ́nh Diệm rất lo ngại khi Mặt trận ra đời sẽ
cản trở mưu đồ thầm kín của họ, nên t́m cách phá hoại cho kỳ
được.
Họ dùng tiền bạc mua chuộc và hứa hẹn chức tước trong chánh phủ,
khiến hai tướng Nguyễn Thành Phương và Tŕnh Minh Thế tuyên bố
với báo chí rút tên ra khỏi Mặt trận.
Khi phá được Mặt trận rồi, họ quay lại t́m cách sát hại những
người hiệp tác với họ như trường hợp tướng Tŕnh Minh Thế ở miền
Đông và tướng Lê Quang Vinh tự Ba Cụt ở miền Tây Nam Phần. Họ
sâu độc không thua thực dân Pháp thuở trước.
Sự thật như vậy mà bản án lại tố cáo Đức Hộ Pháp lập “Mặt trận
thống nhứt toàn lực quốc gia ” do Pháp giựt dây là hoàn toàn vô
căn cứ.
XIV. CHÁNH SÁCH HOÀ B̀NH CHUNG SỐNG
Của Đức Hộ Pháp Phạm
Công Tắc
Trước khi xuất ngoại qua Cam Bốt, Đức Hộ Pháp có mời một số Chức
Sắc Hội Thánh đến Hộ Pháp Đường để Ngài dạy việc vào ngày 24
tháng 12 năm Ất Mùi (1955). Ngài cho biết trước việc xuất ngoại
sắp tới của Ngài là đưa ra một giải pháp mới cho Việt Nam. (theo
tài liệu tốc kư của ông Thừa sử Phan Hữu Phước).
Mười hai ngày sau, đúng mùng 5 Tết Bính Thân (1956) Ngài sang
Nam Vang (Cam Bốt), một nước Trung lập, để được tự do thi hành ư
định là Ngài nhận thấy cuộc tổng tuyển cử bất thành th́ nội
chiến không tránh khỏi nên mới đề xướng “Chánh sách Hoà B́nh
Chung Sống ” để trung gian hoà giải hai miền. Ư định này chẳng
phải mới có khi Đức Hộ Pháp lên Nam Vang, mà Ngài đă thấu triệt
sâu xa từ ngày khởi đi Paris để theo dơi Hội nghị Genève 1954.
Trước khi sang Paris, đêm 15-4-Giáp Ngọ (1954), trong một buổi
thuyết Đạo tại Đền Thánh, Ngài nói:“… Bần Đạo sẽ d́u dẫn Thánh
thể Đức CHÍ TÔN đến địa vị Trung lập, ngày nay Thánh thể Đức CHÍ
TÔN đến giai đoạn là một giáo sư hoà giải …”. Như vậy là Ngài có
ư định tạo một giải pháp hoà giải dân tộc khi hai bên Pháp-Việt
chưa kư Hiệp định Genève 1954.
Chánh sách Hoà B́nh Chung Sống ban hành ngày 26-3-1956 có cáo
tri đến ông Chủ tịch Liên Hiệp Quốc, Tổng Thống và Thủ Tướng các
cường quốc, Uỷ hội Quốc tế kiểm soát đ́nh chiến, hai chánh phủ
hai miền lúc bây giờ là Cụ Hồ Chí Minh và Ngô Đ́nh Diệm, mỗi nơi
đều có điện văn hồi đáp tiếp nhận.
Riêng Cụ Hồ Chủ Tịch có gởi điện văn hồi đáp như sau :
Kính gởi Hộ Pháp Phạm Công Tắc,
135, Mr P.B Norodom P.Penh
“Tôi trân trọng cám ơn bức điện văn Cụ gởi cho tôi ngày
26-4-1956 và thành thật hoan nghinh Cụ đă tỏ ư muốn nước Việt
Nam ta được Hoà B́nh thống nhứt. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà,toàn dân ta từ Bắc chí Nam trong nước và ngoài nước đều đang
kiên quyết và bền bĩ đấu tranh để thực hiện nguyện vọng tha
thiết của dân tộc, là làm cho nước Việt Nam ta được hoà b́nh
thống nhứt, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Cuộc tranh đấu hiện
nay của nhân dân ta tuy phải khó khăn và phức tạp, song toàn dân
ta đoàn kết một ḷng kiên quyết phấn đấu, cho nên nhứt định sẽ
thắng lợi”.
Tôi xin gởi Cụ lời chào trân trọng
Hà Nội, ngày 26-6-1956
Hồ Chí Minh
Chủ
tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.
Chánh sách Hoà B́nh Chung Sống được trong Đạo từ Chức Sắc đến
tín đồ nhiệt liệt hưởng ứng. Chánh phủ Ngô Đ́nh Diệm phái Đặc sứ
Nguyễn Ngọc Thơ lên Toà Thánh Tây Ninh cảnh giác và ngăn chặn,
v́ giải pháp này không thích hợp sách lược chiến tranh của Mỹ,
làm suy yếu tinh thần binh sĩ. Đến năm 1957, Chánh quyền Ngô
Đ́nh Diệm thẳng tay đàn áp, bắt bớ hàng ngàn người đày đi câu
lưu trong các Trung tâm cải huấn, có một số bị chết trong ngục.
Nhưng hết đợt này đến đợt khác, các Ban bộ vẫn nối tiếp hoạt
động cho đến ngày Đức Hộ Pháp qui Thiên (1959) và liên tục cho
đến ngày miền Nam được giải phóng (30-4-1975)
KẾT LUẬN
Chánh sách Hoà B́nh Chung Sống của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
phát sanh từ ngày đất nước Việt Nam bị qua phân do Hiệp định
Genève 1954.
Là một vị Giáo chủ của một nền Tôn giáo và cũng là công dân của
nước Việt Nam, Ngài không muốn thấy chiến tranh anh em giết nhau
như thời Chúa Trịnh và Nguyễn, và gần đây như ở Triều Tiên, nên
mới đề ra một giải pháp chặn đứng chiến tranh, tiết kiệm xương
máu cho ṇi giống.
Mặc dầu t́nh thế nước nhà ngày nay đă ngă ngũ, nhưng lời tiên
đoán của Ngài vẫn không sai.
Chánh sách Hoà B́nh Chung Sống của Đức Hộ Pháp không giống 5
nguyên tắc sống chung Hoà B́nh của thủ tướng Nehru tại Hội nghị
Bandseng hoặc của Tổng Thống De Gaulle. Kế hoạch trung lập của
tướng De Gaulle là một chiến thuật ngoại giao có lợi cho nước
Pháp, c̣n đường lối Hoà B́nh trung lập của Đức Hộ Pháp là đường
lối dung hoà nội bộ Việt Nam. Cả hai đều khác nhau xa về mục
đích cũng như chủ trương của nó.
Bản án Cao Đài cho rằng Đức Hộ Pháp đề xướng Chánh sách Hoà B́nh
Chung Sống theo kế hoạch của Tổng Thống De Gaulle là hoàn toàn
sai lạc.
Trong buổi họp tại giảng đường Toà Thánh do Mặt trận Tổ quốc
tỉnh Tây Ninh tổ chức ngày 6-3-Nhâm Tuất (30-3-1982) mời toàn
thể anh chị em trong nhóm Hoà B́nh Chung Sống và Hoà B́nh giáo
hội của Đức Hộ Pháp, Mặt trận đă tuyên bố : “Những anh em hoạt
động Chánh sách Hoà B́nh Chung Sống trong thời buổi đó tuy không
liên hệ ǵ với Cách mạng, nhưng có công với đất nước v́ đă chống
Mỹ Diệm, xây dựng Hoà B́nh thống nhứt cho đất nước.”
Chúng tôi tự nghĩ không bao giờ giống xấu mà sanh trái tốt. Hành
động của tṛ được tuyên dương mà Thầy bị kết án, theo như lời
phát biểu của một hội viên trong buổi họp.
XV. Sĩ Tải PHẠM DUY NHUNG &
Thiếu Tướng TRƯƠNG VĂN QUẢNG
trong chánh sách Hoà B́nh Chung
Sống của ĐỨC HỘ PHÁP
Hai ông là người thừa kế sự nghiệp tranh đấu Hoà B́nh của Đức Hộ
Pháp từ khoản thời gian nối tiếp 1960 đến ngày miền Nam được
giải phóng, sau khi Đức Hộ Pháp qui Thiên năm 1959 tại Nam Vang.
Riêng ông Sĩ Tải Phạm Duy Nhung v́ kiệt sức trong những năm bị
giam cầm gian khổ nên từ trần năm 1967 tại bệnh viện Tây Ninh
Trong thời gian hoạt động và bị giam cầm nhiều lần, hai ông được
cảm t́nh của một số trí thức yêu nước ở Saigon và phần đông
chánh trị phạm thuộc thành phần cán bộ giải phóng bị giam
chung với hai ông ở khắp trại giam miền nam, trong đó có anh
Nguyễn Văn Me hiện ở Tây Ninh.
V́ vậy, khi Sĩ Tải Phạm Duy Nhung từ trần, có các cụ Trịnh Đ́nh
Thảo, Đặng Văn Kư, Kỹ sư Tô Văn Cang, hai nhà văn Thiếu Sơn và
Thanh Nghị cùng một số trí thức trong Uỷ Ban Bảo vệ Hoà B́nh của
Bác sĩ Phạm Văn Huyến đến tại tư gia ông Nhung (ngoại ô Toà
Thánh) để chia buồn và đến tại phần mộ đặt ṿng hoa tưởng niệm.
Cụ Đặng Văn Kư, đại diện Phái đoàn, có đọc một bài thơ thương
tiếc người quá cố :
Hoà B́nh Chung Sống Phạm Duy Nhung
Nối chí Thầy nêu Thuyết đại đồng
Họp báo tuyên dương đường chánh, ngụy
Vô tù thông cảm cuộc tồn vong
Liên hoan bạn dặn lên nhà bạn
Truy điệu ông nằm dưới mộ ông
Thống nhứt ngày vui ông vắng mặt
Xa gần nhắc nhở nhớ nghi phong
KẾT LUẬN
Hồi thời Mỹ Ngụy, hai ông bị kết tội làm tay sai cho Cộng sản.
Đến nay, chánh quyền cách mạng lên án hai ông làm tay sai cho Mỹ
Ngụy?.
XVI. - TOÀ THÁNH TÂY NINH
TRONG GIAI ĐOẠN TỪ 1956-1975
Đức Hộ Pháp xuất ngoại lên Nam Vang đầu năm 1956 để Ngài được tự
do đề xướng Chánh sách Hoà B́nh Chung Sống vào tháng 3 năm đó.
Suốt gần 20 năm, từ năm 1956 đến ngày thống nhứt đất nước năm
1975, chúng tôi là những người được Đức Hộ Pháp chỉ định hoạt
động cho giải pháp này ở quốc nội, không c̣n liên hệ với Hội
Thánh, nên không hiểu rơ những ǵ Bản án tố cáo trong giai đoạn
đó.
TỔNG KẾT
Bản án Cao Đài do Mặt trận Tổ quốc tỉnh Tây Ninh đưa ra mà toàn
Đạo đều hiểu biết qua các cuộc học tập sâu rộng có trên 3 năm
rồi
Chúng tôi không vội vàng để chờ xem kết quả của nó, và nay mọi
diễn biến đă an bày, bản án cùng với thời gian lùi vào quá khứ.
B́nh tâm nhận xét, ai cũng nh́n thấy Bản án đem lại kết quả như
sau :
- Những tín hữu không đồng ư với Bản án bị bắt bớ, giam cầm.
- Một số người Đạo v́ sợ sệt, muốn cầu an bên ngoài, buộc ḷng
họ phải chối Chúa, nhưng trong thâm tâm lúc nào họ cũng tôn kính
các bậc tiền bối đă có công d́u dẫn họ trên bước đường đạo đức
mấy mươi năm qua.
- Hội Thánh Toà Thánh Tây Ninh bị giải thể cùng với ba cơ quan
Đạo là Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài và Phước Thiện để thành lập
“Hội đồng Chưởng quản” thay thế.
- Nhiều dinh thự nội ô Toà Thánh cùng các động sản, bất động sản
của Đạo bị trưng dụng
- Nghi lễ Quan, Hôn, Tang, Tế của Đạo bị hạn chế và sửa đổi.
Sự thiệt hại đó thuộc về phần h́nh thức, phần tinh thần tín
ngưỡng vẫn nguyên vẹn, v́ nó ở trong tâm khảm của mỗi người.
Chánh quyền Cách mạng làm mất cảm t́nh của 3 triệu tín đồ Cao
Đài mà từ năm 1975 đến nay họ an tâm làm công dân nước Việt Nam
mới Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa, không có hành vi chống đối hay đố
kỵ.
Đạo Cao Đài từ ngày thành lập đến nay đă trải qua những cuộc
thăng trầm trong nhiều trào Chánh phủ đổi thay, nhưng Đạo cũng
vẫn là Đạo.
Những ư kiến tŕnh bày trong phạm vi Bản Cải án này, không riêng
của chúng tôi, mà là ư kiến chung của ba triệu tín đồ Cao Đài
giáo.
Toà Thánh Tây Ninh, ngày 10 tháng 04 năm Nhâm Tuất
(dl 3-5-1982)
Đồng kư tên:
Sĩ Tải Nguyễn Thanh Nguyên
Sĩ Tải Huỳnh Văn Hưởng
Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời
Sĩ Tải Đỗ Hoàng Giảm./.
============================
Đến đây hết Bản Cải Án
Cao Đài.Tiện thể xin gởi đến đồng Đạo và dư luận được biết
ba văn bản của:
- Chủ Tịch Hồ Chí Minh gởi khen Đức Hộ Pháp;
- Văn bản của Chủ tịch Tôn Đức Thắng Chủ Tịch MTTQVN/TƯ gởi mời
Đức Hộ Pháp ra thăm đồng bào và tín hữu Cao Đài ở Miền Bắc;
-Và bản ghi bút lưu niệm của Tổng Bí thư Đỗ Mười để chứng minh
Đạo Cao Đài không phải là tay sai cho ngoại chủng.
Ngô Văn Trí