Trần Trung Đạo: Câu hỏi tháng Tư
Những ngày c̣n nhỏ, tôi bị ám ảnh bởi câu hỏi tự ḿnh đặt ra
“Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một
quốc gia nào khác?”
Tôi lớn lên ở Đà Nẵng. Đường phố quê hương tôi trong khoảng thời
gian từ 1968 đến 1972 có rất nhiều lính Mỹ. Những chiến tàu nhập
cảng Tiên Sa chở đầy chiến xa và súng đạn mang nhăn “Made in
USA”. Những đoàn xe vận tải hiệu Sealand, RMK gần như chạy suốt
ngày đêm từ nơi dỡ hàng ngoài bờ biển đến các kho quân sự chung
quanh Đà Nẵng. Tiếng gầm thét của các phi cơ chiến đấu có đôi
cánh gắn đầy bom, lát nữa, sẽ được ném xuống một nơi nào đó trên
mảnh đất Việt Nam. Những câu lạc bộ, được gọi là “hộp đêm”, mọc
đầy hai bên bờ sông Hàn. Mỹ đen, Mỹ trắng chở hàng quân tiếp vụ
đi bán dọc chợ Cồn, chợ Vườn Hoa.
Phía trước Ṭa Thị Chính Đà Nẵng, trước rạp hát Trưng Vương hay
trong sân vận động Chi Lăng, gần như tháng nào cũng có trưng bày
chiến lợi phẩm tịch thu từ các cuộc hành quân. Những khẩu thượng
liên có ṇng súng cao, những khẩu pháo ṇng dài, rất nhiều AK
47, B40, súng phóng lựu đạn và hàng khối đạn đồng vàng rực. Sau
“Mùa hè đỏ lửa” trong số chiến lợi phẩm c̣n có một chiếc xe tăng
T54 được trưng bày rất lâu trước Ṭa Thị Chính. Không cần phải
giỏi ngoại ngữ, chỉ nh́n nhăn hiệu tôi cũng biết ngay chúng là
hàng của Trung Quốc và Liên Xô.
Nh́n viên đạn của Nga và Tàu, tôi nghĩ đến trái tim của người
lính trẻ miền Nam, giống như khi nh́n chiếc chiến đấu cơ của Mỹ
cất cánh tôi chợt nghĩ đến các anh lính từ miền Bắc xấu số đang
di chuyển bên kia sông Thu Bồn. Vũ khí là của các đế quốc. Không
có khẩu súng nào chế tạo ở miền Nam hay miền Bắc. Các bà mẹ Việt
Nam chỉ chế tạo được những đứa con và đóng góp phần xương máu.
Vũ khí của các đế quốc trông khác nhau nhưng nạn nhân của chúng
dù bên này hay bên kia lại rất giống nhau. Nếu tháo đi chiếc nón
sắt, chiếc mũ vải xanh, hai người thanh niên có mái tóc đen,
vầng trán hẹp, đôi mắt buồn hiu v́ nhớ mẹ, nhớ em chẳng khác ǵ
nhau. Dù “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” hay “mặt hồ Gươm
vẫn lung linh mây trời” cũng là quê hương Việt Nam và nỗi nhớ
trong tâm hồn người con trai Việt ở đâu cũng đậm đà tha thiết.
Người lính miền Nam chết v́ phải bảo vệ chiếc cầu, căn nhà, xóm
làng, góc phố thân yêu của họ. Nếu ai làm một thống kê để hỏi
những lính miền Nam c̣n sống hôm nay, tôi tin không ai trả lời
muốn “ăn gan uống máu quân thù” miền Bắc. Họ chỉ muốn sống yên
ổn trong ḥa b́nh để xây đắp lại mảnh đất họ đă “xin chọn nơi
này làm quê hương” sau khi trải qua quá nhiều đau thương tang
tóc. Họ phải chiến đấu và hy sinh trong một cuộc chiến tự vệ mà
họ không chọn lựa.
Dân chủ không phải là lô độc đắc rơi vào trong túi của người dân
miền Nam mà phải trải bằng một giá rất đắt. Tham nhũng, lạm
quyền, ám sát, đảo chánh diễn ra trong nhiều năm sau 1960. Có
một dạo, tấm h́nh của vị “nguyên thủ quốc gia” chưa đem ra khỏi
nhà in đất nước đă có một “nguyên thủ quốc gia” khác. Nhưng đó
là chuyện của chính quyền và nhân dân miền Nam không dính líu ǵ
đến đảng Cộng Sản miền Bắc.
Dân chủ ở miền Nam không phải là sản phẩm của Mỹ được đóng thùng
từ Washington DC gởi qua nhưng là hạt giống do Phan Chu Trinh,
Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An
Ninh và rất nhiều nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng
nửa thế kỷ trước đă mọc và lớn lên trong mưa băo. Không chỉ miền
Nam Việt Nam mà ở đâu cũng vậy. Nam Hàn, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Phi
Luật Tân và nhiều quốc gia khác, dân chủ đă phải trải qua con
đường máu nhuộm trước khi đơm bông kết trái.
Khác với người lính miền Nam, người lính miền Bắc chết v́ viên
thuốc độc bọc đường “thống nhất đất nước”. Chị Đặng Thùy Trâm bị
giết ở Quảng Ngăi đă uống viên thuốc đó. Anh Nguyễn Văn Thạc,
tác giả của hồi kư “Măi măi tuổi hai mươi” bị giết ở Quảng Trị
đă uống viên thuốc đó. Cô bé Trần Thị Hường 17 tuổi và chín cô
gái ở Ngă Ba Đồng Lộc bị bom Mỹ rơi trúng ngay hầm đă uống viên
thuốc đó. Họ không biết đó là thuốc độc. Không biết th́ không
đáng trách. Nhà văn Dương Thu Hương trải qua một thời thanh niên
xung phong nhưng chị may mắn c̣n sống để nhắc cho các thế hệ trẻ
Việt Nam hôm nay biết “chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ v́ nó
chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người.”
Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một
quốc gia nào khác?
Thật không công bằng cho đảng nếu tôi chỉ dùng tài liệu trong
các thư viện ở Mỹ để chứng minh âm mưu xích hóa Việt Nam của
đảng CSVN.
Tôi sẽ trích những câu do đảng viết ra. Theo quan điểm lịch sử
của đảng CSVN chiến tranh đă xảy ra bởi v́ “Ở miền Nam, lợi dụng
sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đă nhảy
vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu
mới và căn cứ quân sự của Mỹ.”
Không ai h́nh dung “thuộc địa kiểu mới” h́nh dáng ra sao và đảng
cũng chưa bao giờ giải thích một cách rơ ràng.
Sau Thế chiến thứ hai, hàng loạt quốc gia trong đó có những nước
vốn từng là đế quốc, đă nằm trong ṿng ảnh hưởng kinh tế và cả
chính trị của Mỹ. Chẳng lẽ 18 nước châu Âu bao gồm Tây Đức, Áo,
Bỉ, Pháp, Ư, Anh, Ḥa Lan v.v… trong kế hoạch Marshall chia nhau
hàng trăm tỉ đô la của Mỹ để tái thiết đất nước sau thế chiến
thứ hai đều trở thành những “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao?
Chẳng lẽ các nước Á châu như Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan được
viện trợ không những tiền của mà c̣n bằng cả sức người để xây
dựng lại đất nước họ là “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao?
Chuyện trở thành một “căn cứ quân sự” của Mỹ lại càng khó hơn.
Chính sách vô cùng khôn khéo của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ dùng Đệ
Lục Hạm Đội Mỹ làm hàng rào bảo vệ đất nước Thổ ngăn chặn làn
sóng đỏ Liên Xô xâm lược là một bài học cho các lănh đạo quốc
gia biết mở mắt nh́n xa. Mặc dù là một nước trung lập trong thế
chiến thứ hai, để lấy ḷng Mỹ, lănh đạo Thổ đă t́nh nguyện gởi
5500 quân tham chiến bên cạnh Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên.
Quân đội Thổ chiến đấu anh dũng nhưng cũng chịu đựng tổn thất
rất nặng nề. Một nửa lực lượng Thổ đă chết và bị thương trong ba
năm chiến tranh. Nhờ sự hy sinh của họ mà Thổ Nhĩ Kỳ được đền
bù. Ngày 18 tháng 2 năm 1952, Thổ Nhĩ Kỳ chính thức trở thành
hội viên của NATO và hùng mạnh đến ngày nay.
Nhật Bản là một ví dụ khác. Trong cuốn phim tài liệu Thế Giới
Thiếu Mỹ (The World Without US) đạo diễn Mitch Anderson trích
lời phát biểu của Thủ tướng Nhật Yasuhiro Nakasone “Nếu Mỹ rút
khỏi Nhật Bản, chúng tôi phải dành suốt mười năm tới chỉ để lo
tái vơ trang trong nhiều mặt, kể cả sản xuất vơ khí nguyên tử”.
Một quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới nhưng dành
vỏn vẹn một phần trăm cho ngân sách quốc pḥng chỉ v́ Nhật dựa
vào khả năng quốc pḥng của Mỹ và sự có mặt của 35 ngàn quân Mỹ.
Khác với chủ trương “đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” của Hồ Chí Minh,
trong một thống kê mới đây, 73 phần trăm công dân Nhật biết ơn
quân đội Mỹ bảo vệ họ.
Đứng trước một miền Bắc điêu tàn sau mấy trăm năm nội chiến và
thực dân áp bức, một giới lănh đạo nếu thật tâm thương yêu dân
tộc trước hết phải nghĩ đến việc vá lại những tang thương đổ vỡ,
đưa đất nước ra khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu. Ngay cả thống nhất
là một ước mơ chung và có thật đi nữa cũng cần thời gian và điều
kiện. Con người trước hết phải sống, phải có cơm ăn, áo mặc, nhà
ở, học hành trước khi nghĩ đến chuyện đoàn tụ với đồng bào và bà
con thân thuộc.
Ngoại trừ các lănh đạo CSVN, trên thế giới chưa có một giới lănh
đạo thể hiện ḷng yêu nước bằng cách giết đi một phần mười dân
số, đốt cháy đi một nửa giang sơn của tổ tiên để lại, dâng hiến
hải đảo chiến lược cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc mà gọi đó
là “thống nhất đất nước” và “ḥa hợp dân tộc”.
Cũng trong tài liệu chính thức của đảng, ngay cả trước khi kư
hiệp định Geneve và khi Việt Nam chưa có một dấu chân người lính
Mỹ nào, hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng CSVN từ ngày 15
đến 17 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng CSVN
đă nghĩ đến chuyện đánh Mỹ “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính
của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực
tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm
chống đế quốc Mỹ”.
Vào thời điểm trước 1954, dân tộc Việt Nam thật sự có một mối
thù không đội trời chung với Mỹ sâu đến thế sao hay giới lănh
đạo CSVN chỉ vẽ h́nh ảnh một “đế quốc Mỹ thâm độc đầu sỏ” như
một lư do để chiếm toàn bộ Việt Nam bằng vơ lực, và cùng lúc để
phụ họa theo quan điểm chống Mỹ điên cuồng của chủ nô Mao Trạch
Đông sau khi nướng gần một nửa triệu thanh niên Trung Quốc qua
các đợt biển người trong cuộc chiến Triều Tiên?
Chữ “nước” trong khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” là nước Trung
Cộng chứ không phải nước Việt Nam.
Đường lối chiến tranh cách mạng của Mao có thể tóm tắt trong bài
phát biểu tại Diên An: “Nhiệm vụ trung tâm và h́nh thức cao nhất
của cách mạng là chiếm lấy quyền lực xuyên qua đấu tranh vơ
trang và giải quyết xung đột bằng chiến tranh. Đây là nguyên tắc
cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, và và phải được một cách toàn
diện tại Trung Quốc và toàn thế thế giới”. Đường lối sắt máu đó
đă được các lănh đạo CSVN áp dụng một cách nguyên tắc và chi
phối toàn bộ chiến lược chiến tranh của đảng CSVN từ khi phát
động cuộc chiến “giải phóng miền Nam bằng vơ lực” cho tới 30
tháng Tư 1975. Tất cả các hiệp định từ Geneva 1954 cho tới Paris
1973 chỉ là những trạm dừng chân, thời gian nghĩ ngơi dưỡng sức
của đoàn quân CS chứ không phải là chặng cuối cùng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau gần một thế kỷ với bao nhiều tổn
thất máu xương, tù ngục, mục tiêu Cộng Sản hóa Việt Nam của đảng
cuối cùng đă đạt được. Lê Duẩn, trong diễn văn mừng chiến thắng
vài hôm sau đó đă nói “vinh quang này thuộc về đảng Lao Động
Việt Nam quang vinh, người tổ chức và lănh đạo mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam”. Lời phát biểu của họ Lê nhất quán với nghị
quyết của đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú chủ tŕ
năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn vào
tháng 4 cùng năm, ghi rơ: “Vai tṛ lănh đạo của Đảng Cộng sản
trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư
sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục
tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và sau đó chuyển sang
làm cách mạng xă hội chủ nghĩa.”
Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN cũng lần nữa khẳng định
“Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá tŕnh đấu tranh cách
mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xă
hội là mục tiêu, lư tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt
Nam; đi lên chủ nghĩa xă hội là yêu cầu khách quan, là con đường
tất yếu của cách mạng Việt Nam…. Vào những năm cuối thế kỷ XX,
mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xă hội hiện thực đă bị đổ vỡ một
mảng lớn, hệ thống các nước xă hội chủ nghĩa không c̣n, phong
trào xă hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái
trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp
tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước
Việt Nam theo con đường xă hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa
Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Nhiều người cho rằng Nguyễn Phú Trọng nói những câu lạc hậu, lỗi
thời mà không biết mắc cỡ. Tôi tin y nói một cách chân thành và
hănh diện. Nhờ tài lănh đạo mà đảng CSVN đă tồn tại dù cả một hệ
thống xă hội chủ nghĩa lớn mạnh như Liên Xô đă phải sụp đổ.
Đối diện với thời đại toàn cầu hóa, nội chung chủ nghĩa Mác về
mặt kinh tế đă phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu tồn tại của đảng
nhưng cơ chế nhà nước toàn trị sắc máu theo kiểu Lê Nin, Stalin
chẳng những được duy tŕ mà c̣n củng cố chặt chẽ và nâng cấp kỹ
thuật cao hơn. Dù ngoài miệng có hát bài “ḥa hợp ḥa giải” thắm
đượm t́nh dân tộc, bên trong, các chính sách của đảng vẫn luôn
kiên tŕ với mục tiêu toàn trị và bất cứ ai đi ngược với mục
tiêu đó đều bị triệt tiêu không thương xót.
Dưới chế độ Cộng Sản, không những người dân bị ràng buộc vào bộ
máy mà cả các lănh đạo cũng sinh hoạt trong khuôn khổ tổ chức và
nghiêm chỉnh thực thi các nguyên tắc lănh đạo độc tài sắc máu do
đảng của họ đề ra. Điều đó giải thích lư do giọng điệu của những
cựu lănh đạo Cộng Sản như Vơ Văn Kiệt, Nguyễn Văn An, Nguyễn
Khoa Điềm sau khi rời chức vụ giống như những người vừa được
giải phẫu thanh quản, nói dễ nghe hơn nhiều so với thời c̣n
trong bộ máy cầm quyền. Họ không phải là những người “buông dao
thành Phật” nhưng chỉ v́ họ đă trở về với vị trí một con người
b́nh thường, ít bị ràng buộc trong cách ăn cách nói, cách hành
xử, cách khen thưởng và trừng phạt như khi c̣n tại chức.
Giới lănh đạo Cộng Sản được trui rèn trong tranh đấu, được huấn
luyện chính trị từ cấp đội, cấp đoàn trước khi giữ các vị trí
then chốt trong đảng và nhà nước CS. Họ nắm vững tâm lư và vận
dụng một cách khéo léo tâm lư quần chúng để phục vụ cho các
chính sách của đảng trong từng thời kỳ. Sau biến cố Thiên An
Môn, để đánh lạc hướng cuộc đấu tranh đ̣i dân chủ của thanh niên
sinh viên, nhà cầm quyền Cộng Sản Trung Quốc khai thác ḷng căm
thù chính sách quân phiệt của Nhật đă xảy ra từ thế kỷ trước.
Lợi dụng việc Bộ Giáo dục Nhật bản liệt kê biến cố tàn sát Nam
Kinh như một tai nạn trong sách giáo khoa, nhà cầm quyền Trung
Quốc đă khuyến khích hàng chục ngàn thanh niên sinh viên Trung
Quốc biểu t́nh suốt 3 tuần lễ trước ṭa đại sứ Nhật. Việt Nam
cũng thế. Trong chiến tranh biên giới 1979, các lănh đạo CSVN đă
lần nữa sử dụng thành công viên thuốc độc bọc đường “bảo vệ tổ
quốc”.
Máu của hàng vạn thanh niên Việt Nam đổ xuống dọc biên giới Việt
Trung phát xuất từ t́nh yêu quê hương trong sáng và đáng được
tôn vinh, tuy nhiên, nếu dừng lại một phút để hỏi, họ thật sự
chết v́ tổ quốc hay chỉ để trả nợ xương máu giùm cho đảng CSVN?
Với tất cả thông tin được phơi bày, tài liệu được giải mật cho
thấy, cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” mà giới lănh đạo CSVN đưa
ra thực chất chỉ là cái cớ. Không có một người lính Mỹ nào đến
Việt Nam, đảng vẫn cộng sản hóa miền Nam cho bằng được. Bộ máy
tuyên truyền tinh vi của đảng thừa khả năng để nghĩ ra hàng trăm
lư do khác để đánh miền Nam. Đảng CSVN là nguyên nhân khiến cho
nhiều triệu người Việt vô tội ở hai miền đă phải chết một cách
oan uổng, bao nhiêu thế hệ bị tiêu vong, bao nhiêu tài nguyên bị
tàn phá và quan trọng nhất, chiếc c̣ng Trung Cộng mà đảng thông
đồng để đeo trên cổ dân tộc Việt Nam mỗi ngày ăn sâu vào da thịt
nhưng không biết làm sao tháo gỡ xuống đây. Nói theo cách viết
của nhạc sĩ Việt Khang “Việt Nam ơi thời gian quá nửa đời, và ta
đă tỏ tường rồi”, chiến tranh xảy ra tại Việt Nam mà không ở đâu
khác chỉ v́ Việt Nam có đảng Cộng Sản Việt Nam.
Ngoại trừ các em, các cháu bị nhào nặn trong nền giáo dục ngu
dân một chiều chưa có dịp tiếp xúc với các nguồn thông tin khách
quan khoa học, nếu hôm nay, những người có học, biết nhận thức
mà c̣n nghĩ rằng cuộc chiến kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm
1975 là cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước”, những kẻ đó hoặc bị tẩy
năo hoàn toàn hoặc biết ḿnh sai nhưng không đủ can đảm để thừa
nhận ra nguồn gốc sâu xa của cuộc chiến Việt Nam và tự dối ḷng
để tiếp tục sống cho hết một kiếp người.
Sau 40 năm, “hàng triệu người buồn” như ông Vơ Văn Kiệt nói, nếu
chưa qua đời, hôm nay vẫn c̣n buồn. Nhưng người buồn không phải
chỉ từ phía những người lính Việt Nam Cộng Ḥa bị buộc buông
súng, từ phía nhân dân miền Nam bị mất tự do mà c̣n là những
người miền Bắc, cả những người trong đảng CS đă biết ra sự thật,
biết ḿnh bị lừa gạt, biết ḿnh đă dâng hiến cả một cuộc đời
trai trẻ cho một chủ nghĩa độc tài, ngoại lai, vong bản.
Không hiểu đúng tại sao chủ nghĩa CS đến Việt Nam sẽ không có
một cách thích hợp để đẩy CS đi ra khỏi Việt Nam. Và tương tự,
không hiểu đúng quá khứ, sẽ không có hành động đúng v́ tương lai
đất nước.
Gần mười năm trước tôi kết luận bài viết về ngày 30 tháng 4 bằng
ba phân đoạn dưới đây và năm nay, tôi kết luận một lần nữa cũng
bằng những ḍng chữ đó để chứng minh một điều, tuổi trẻ của tôi
có thể qua đi nhưng niềm tin vào tuổi trẻ trong tôi vẫn c̣n
nguyên vẹn.
Như lịch sử đă chứng minh, chính nghĩa bao giờ cũng thắng. Không
có vũ khí nào mạnh hơn sức mạnh đoàn kết dân tộc. Chỉ có sức
mạnh Đoàn Kết Dân Tộc, chúng ta mới có khả năng bảo vệ được chủ
quyền và lănh thổ Việt Nam, chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc
chúng ta mới có khả năng vượt lên những hệ lụy quá khứ để hướng
vào tương lai tươi sáng cho đời đời con cháu mai sau và chỉ có
sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả năng phục hồi sự
kính trọng Việt Nam trong lân quốc cũng như trong bang giao quốc
tế.
Ngày 30 tháng 4, ngoài tất cả ư nghĩa mà chúng ta đă biết, c̣n
là ngày để mỗi chúng ta nh́n lại chính ḿnh, ngày để mỗi chúng
ta tự hỏi ḿnh đă làm ǵ cho đất nước, và đang đứng đâu trong
cuộc vận hành của lịch sử hôm nay. Mỗi người Việt Nam có hoàn
cảnh sống khác nhau, quá khứ khác nhau, tôn giáo khác nhau và
mang trên thân thể những thương tích khác nhau, nhưng chỉ có một
đất nước để cùng lo gánh vác. Đất nước phải vượt qua những hố
thẳm đói nghèo lạc hậu và đi lên cùng nhân loại. Không ai có
quyền bắt đất nước phải đau nỗi đau của ḿnh hay bắt đất nước
phải đi ngược chiều kim lịch sử như ḿnh đang đi lùi dần vào quá
khứ. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam không nằm trong tay thiểu số
lănh đạo CSVN. Tương lai dân tộc không nằm trong tay thiểu số
lănh đạo CSVN. Sinh mệnh dân tộc Việt Nam do chính nhân dân Việt
Nam quyết định. Và do đó, con đường để đến một điểm hẹn lịch sử
huy hoàng cho con cháu, chính là con đường dân tộc và không có
một con đường nào khác.
Bốn mươi năm là một quăng đường dài. Chúng ta đă hơn một lần trễ
hẹn với non sông, nhưng không phải v́ thế mà không c̣n cơ hội.
Cơ hội vẫn c̣n đó nếu chúng ta biết đoàn kết, thấy được hướng đi
chung của dân tộc và thời đại. Chúng ta có nhiều quá khứ nhưng
đất nước chỉ có một tương lai, đó là tương lai tự do, dân chủ,
nhân bản và khai phóng cho những ai, sau những điêu tàn đổ vỡ,
c̣n biết nhận ra nhau, c̣n biết yêu thương mảnh đất thiêng
liêng, vinh quang và thống khổ Việt Nam.
Trần Trung Đạo