Trần Trung Đạo: Câu hỏi tháng Tư
				
				
				
				
				
				
				
				Những ngày c̣n nhỏ, tôi bị ám ảnh bởi câu hỏi tự ḿnh đặt ra 
				“Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một 
				quốc gia nào khác?” 
				
				
				Tôi lớn lên ở Đà Nẵng. Đường phố quê hương tôi trong khoảng thời 
				gian từ 1968 đến 1972 có rất nhiều lính Mỹ. Những chiến tàu nhập 
				cảng Tiên Sa chở đầy chiến xa và súng đạn mang nhăn “Made in 
				USA”. Những đoàn xe vận tải hiệu Sealand, RMK gần như chạy suốt 
				ngày đêm từ nơi dỡ hàng ngoài bờ biển đến các kho quân sự chung 
				quanh Đà Nẵng. Tiếng gầm thét của các phi cơ chiến đấu có đôi 
				cánh gắn đầy bom, lát nữa, sẽ được ném xuống một nơi nào đó trên 
				mảnh đất Việt Nam. Những câu lạc bộ, được gọi là “hộp đêm”, mọc 
				đầy hai bên bờ sông Hàn. Mỹ đen, Mỹ trắng chở hàng quân tiếp vụ 
				đi bán dọc chợ Cồn, chợ Vườn Hoa. 
				
				
				Phía trước Ṭa Thị Chính Đà Nẵng, trước rạp hát Trưng Vương hay 
				trong sân vận động Chi Lăng, gần như tháng nào cũng có trưng bày 
				chiến lợi phẩm tịch thu từ các cuộc hành quân. Những khẩu thượng 
				liên có ṇng súng cao, những khẩu pháo ṇng dài, rất nhiều AK 
				47, B40, súng phóng lựu đạn và hàng khối đạn đồng vàng rực. Sau 
				“Mùa hè đỏ lửa” trong số chiến lợi phẩm c̣n có một chiếc xe tăng 
				T54 được trưng bày rất lâu trước Ṭa Thị Chính. Không cần phải 
				giỏi ngoại ngữ, chỉ nh́n nhăn hiệu tôi cũng biết ngay chúng là 
				hàng của Trung Quốc và Liên Xô.
				
				
				Nh́n viên đạn của Nga và Tàu, tôi nghĩ đến trái tim của người 
				lính trẻ miền Nam, giống như khi nh́n chiếc chiến đấu cơ của Mỹ 
				cất cánh tôi chợt nghĩ đến các anh lính từ miền Bắc xấu số đang 
				di chuyển bên kia sông Thu Bồn. Vũ khí là của các đế quốc. Không 
				có khẩu súng nào chế tạo ở miền Nam hay miền Bắc. Các bà mẹ Việt 
				Nam chỉ chế tạo được những đứa con và đóng góp phần xương máu. 
				
				
				
				Vũ khí của các đế quốc trông khác nhau nhưng nạn nhân của chúng 
				dù bên này hay bên kia lại rất giống nhau. Nếu tháo đi chiếc nón 
				sắt, chiếc mũ vải xanh, hai người thanh niên có mái tóc đen, 
				vầng trán hẹp, đôi mắt buồn hiu v́ nhớ mẹ, nhớ em chẳng khác ǵ 
				nhau. Dù “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” hay “mặt hồ Gươm 
				vẫn lung linh mây trời” cũng là quê hương Việt Nam và nỗi nhớ 
				trong tâm hồn người con trai Việt ở đâu cũng đậm đà tha thiết. 
				
				
				
				Người lính miền Nam chết v́ phải bảo vệ chiếc cầu, căn nhà, xóm 
				làng, góc phố thân yêu của họ. Nếu ai làm một thống kê để hỏi 
				những lính miền Nam c̣n sống hôm nay, tôi tin không ai trả lời 
				muốn “ăn gan uống máu quân thù” miền Bắc. Họ chỉ muốn sống yên 
				ổn trong ḥa b́nh để xây đắp lại mảnh đất họ đă “xin chọn nơi 
				này làm quê hương” sau khi trải qua quá nhiều đau thương tang 
				tóc. Họ phải chiến đấu và hy sinh trong một cuộc chiến tự vệ mà 
				họ không chọn lựa. 
				
				
				Dân chủ không phải là lô độc đắc rơi vào trong túi của người dân 
				miền Nam mà phải trải bằng một giá rất đắt. Tham nhũng, lạm 
				quyền, ám sát, đảo chánh diễn ra trong nhiều năm sau 1960. Có 
				một dạo, tấm h́nh của vị “nguyên thủ quốc gia” chưa đem ra khỏi 
				nhà in đất nước đă có một “nguyên thủ quốc gia” khác. Nhưng đó 
				là chuyện của chính quyền và nhân dân miền Nam không dính líu ǵ 
				đến đảng Cộng Sản miền Bắc. 
				
				
				Dân chủ ở miền Nam không phải là sản phẩm của Mỹ được đóng thùng 
				từ Washington DC gởi qua nhưng là hạt giống do Phan Chu Trinh, 
				Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An 
				Ninh và rất nhiều nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng 
				nửa thế kỷ trước đă mọc và lớn lên trong mưa băo. Không chỉ miền 
				Nam Việt Nam mà ở đâu cũng vậy. Nam Hàn, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Phi 
				Luật Tân và nhiều quốc gia khác, dân chủ đă phải trải qua con 
				đường máu nhuộm trước khi đơm bông kết trái. 
				
				
				
				Khác với người lính miền Nam, người lính miền Bắc chết v́ viên 
				thuốc độc bọc đường “thống nhất đất nước”. Chị Đặng Thùy Trâm bị 
				giết ở Quảng Ngăi đă uống viên thuốc đó. Anh Nguyễn Văn Thạc, 
				tác giả của hồi kư “Măi măi tuổi hai mươi” bị giết ở Quảng Trị 
				đă uống viên thuốc đó. Cô bé Trần Thị Hường 17 tuổi và chín cô 
				gái ở Ngă Ba Đồng Lộc bị bom Mỹ rơi trúng ngay hầm đă uống viên 
				thuốc đó. Họ không biết đó là thuốc độc. Không biết th́ không 
				đáng trách. Nhà văn Dương Thu Hương trải qua một thời thanh niên 
				xung phong nhưng chị may mắn c̣n sống để nhắc cho các thế hệ trẻ 
				Việt Nam hôm nay biết “chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ v́ nó 
				chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người.” 
				
				
				
				Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một 
				quốc gia nào khác?  
				
				
				Thật không công bằng cho đảng nếu tôi chỉ dùng tài liệu trong 
				các thư viện ở Mỹ để chứng minh âm mưu xích hóa Việt Nam của 
				đảng CSVN.
				
				
				Tôi sẽ trích những câu do đảng viết ra. Theo quan điểm lịch sử 
				của đảng CSVN chiến tranh đă xảy ra bởi v́ “Ở miền Nam, lợi dụng 
				sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đă nhảy 
				vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu 
				mới và căn cứ quân sự của Mỹ.” 
				
				
				Không ai h́nh dung “thuộc địa kiểu mới” h́nh dáng ra sao và đảng 
				cũng chưa bao giờ giải thích một cách rơ ràng. 
				
				
				
				Sau Thế chiến thứ hai, hàng loạt quốc gia trong đó có những nước 
				vốn từng là đế quốc, đă nằm trong ṿng ảnh hưởng kinh tế và cả 
				chính trị của Mỹ. Chẳng lẽ 18 nước châu Âu bao gồm Tây Đức, Áo, 
				Bỉ, Pháp, Ư, Anh, Ḥa Lan v.v… trong kế hoạch Marshall chia nhau 
				hàng trăm tỉ đô la của Mỹ để tái thiết đất nước sau thế chiến 
				thứ hai đều trở thành những “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao? 
				Chẳng lẽ các nước Á châu như Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan được 
				viện trợ không những tiền của mà c̣n bằng cả sức người để xây 
				dựng lại đất nước họ là “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao? 
				
				
				
				Chuyện trở thành một “căn cứ quân sự” của Mỹ lại càng khó hơn. 
				
				
				
				Chính sách vô cùng khôn khéo của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ dùng Đệ 
				Lục Hạm Đội Mỹ làm hàng rào bảo vệ đất nước Thổ ngăn chặn làn 
				sóng đỏ Liên Xô xâm lược là một bài học cho các lănh đạo quốc 
				gia biết mở mắt nh́n xa. Mặc dù là một nước trung lập trong thế 
				chiến thứ hai, để lấy ḷng Mỹ, lănh đạo Thổ đă t́nh nguyện gởi 
				5500 quân tham chiến bên cạnh Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên. 
				Quân đội Thổ chiến đấu anh dũng nhưng cũng chịu đựng tổn thất 
				rất nặng nề. Một nửa lực lượng Thổ đă chết và bị thương trong ba 
				năm chiến tranh. Nhờ sự hy sinh của họ mà Thổ Nhĩ Kỳ được đền 
				bù. Ngày 18 tháng 2 năm 1952, Thổ Nhĩ Kỳ chính thức trở thành 
				hội viên của NATO và hùng mạnh đến ngày nay. 
				
				
				
				Nhật Bản là một ví dụ khác. Trong cuốn phim tài liệu Thế Giới 
				Thiếu Mỹ (The World Without US) đạo diễn Mitch Anderson trích 
				lời phát biểu của Thủ tướng Nhật Yasuhiro Nakasone “Nếu Mỹ rút 
				khỏi Nhật Bản, chúng tôi phải dành suốt mười năm tới chỉ để lo 
				tái vơ trang trong nhiều mặt, kể cả sản xuất vơ khí nguyên tử”. 
				Một quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới nhưng dành 
				vỏn vẹn một phần trăm cho ngân sách quốc pḥng chỉ v́ Nhật dựa 
				vào khả năng quốc pḥng của Mỹ và sự có mặt của 35 ngàn quân Mỹ. 
				Khác với chủ trương “đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” của Hồ Chí Minh, 
				trong một thống kê mới đây, 73 phần trăm công dân Nhật biết ơn 
				quân đội Mỹ bảo vệ họ. 
				
				
				Đứng trước một miền Bắc điêu tàn sau mấy trăm năm nội chiến và 
				thực dân áp bức, một giới lănh đạo nếu thật tâm thương yêu dân 
				tộc trước hết phải nghĩ đến việc vá lại những tang thương đổ vỡ, 
				đưa đất nước ra khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu. Ngay cả thống nhất 
				là một ước mơ chung và có thật đi nữa cũng cần thời gian và điều 
				kiện. Con người trước hết phải sống, phải có cơm ăn, áo mặc, nhà 
				ở, học hành trước khi nghĩ đến chuyện đoàn tụ với đồng bào và bà 
				con thân thuộc.
				
				
				Ngoại trừ các lănh đạo CSVN, trên thế giới chưa có một giới lănh 
				đạo thể hiện ḷng yêu nước bằng cách giết đi một phần mười dân 
				số, đốt cháy đi một nửa giang sơn của tổ tiên để lại, dâng hiến 
				hải đảo chiến lược cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc mà gọi đó 
				là “thống nhất đất nước” và “ḥa hợp dân tộc”. 
				
				
				
				Cũng trong tài liệu chính thức của đảng, ngay cả trước khi kư 
				hiệp định Geneve và khi Việt Nam chưa có một dấu chân người lính 
				Mỹ nào, hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng CSVN từ ngày 15 
				đến 17 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng CSVN 
				đă nghĩ đến chuyện đánh Mỹ “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính 
				của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực 
				tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm 
				chống đế quốc Mỹ”. 
				
				
				Vào thời điểm trước 1954, dân tộc Việt Nam thật sự có một mối 
				thù không đội trời chung với Mỹ sâu đến thế sao hay giới lănh 
				đạo CSVN chỉ vẽ h́nh ảnh một “đế quốc Mỹ thâm độc đầu sỏ” như 
				một lư do để chiếm toàn bộ Việt Nam bằng vơ lực, và cùng lúc để 
				phụ họa theo quan điểm chống Mỹ điên cuồng của chủ nô Mao Trạch 
				Đông sau khi nướng gần một nửa triệu thanh niên Trung Quốc qua 
				các đợt biển người trong cuộc chiến Triều Tiên? 
				
				
				
				Chữ “nước” trong khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” là nước Trung 
				Cộng chứ không phải nước Việt Nam.
				
				
				Đường lối chiến tranh cách mạng của Mao có thể tóm tắt trong bài 
				phát biểu tại Diên An: “Nhiệm vụ trung tâm và h́nh thức cao nhất 
				của cách mạng là chiếm lấy quyền lực xuyên qua đấu tranh vơ 
				trang và giải quyết xung đột bằng chiến tranh. Đây là nguyên tắc 
				cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, và và phải được một cách toàn 
				diện tại Trung Quốc và toàn thế thế giới”. Đường lối sắt máu đó 
				đă được các lănh đạo CSVN áp dụng một cách nguyên tắc và chi 
				phối toàn bộ chiến lược chiến tranh của đảng CSVN từ khi phát 
				động cuộc chiến “giải phóng miền Nam bằng vơ lực” cho tới 30 
				tháng Tư 1975. Tất cả các hiệp định từ Geneva 1954 cho tới Paris 
				1973 chỉ là những trạm dừng chân, thời gian nghĩ ngơi dưỡng sức 
				của đoàn quân CS chứ không phải là chặng cuối cùng.
				
				
				Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau gần một thế kỷ với bao nhiều tổn 
				thất máu xương, tù ngục, mục tiêu Cộng Sản hóa Việt Nam của đảng 
				cuối cùng đă đạt được. Lê Duẩn, trong diễn văn mừng chiến thắng 
				vài hôm sau đó đă nói “vinh quang này thuộc về đảng Lao Động 
				Việt Nam quang vinh, người tổ chức và lănh đạo mọi thắng lợi của 
				cách mạng Việt Nam”. Lời phát biểu của họ Lê nhất quán với nghị 
				quyết của đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú chủ tŕ 
				năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn vào 
				tháng 4 cùng năm, ghi rơ: “Vai tṛ lănh đạo của Đảng Cộng sản 
				trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư 
				sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục 
				tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và sau đó chuyển sang 
				làm cách mạng xă hội chủ nghĩa.” 
				
				
				Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN cũng lần nữa khẳng định 
				“Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá tŕnh đấu tranh cách 
				mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xă 
				hội là mục tiêu, lư tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt 
				Nam; đi lên chủ nghĩa xă hội là yêu cầu khách quan, là con đường 
				tất yếu của cách mạng Việt Nam…. Vào những năm cuối thế kỷ XX, 
				mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xă hội hiện thực đă bị đổ vỡ một 
				mảng lớn, hệ thống các nước xă hội chủ nghĩa không c̣n, phong 
				trào xă hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái 
				trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp 
				tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước 
				Việt Nam theo con đường xă hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa 
				Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. 
				
				
				Nhiều người cho rằng Nguyễn Phú Trọng nói những câu lạc hậu, lỗi 
				thời mà không biết mắc cỡ. Tôi tin y nói một cách chân thành và 
				hănh diện. Nhờ tài lănh đạo mà đảng CSVN đă tồn tại dù cả một hệ 
				thống xă hội chủ nghĩa lớn mạnh như Liên Xô đă phải sụp đổ. 
				
				
				
				Đối diện với thời đại toàn cầu hóa, nội chung chủ nghĩa Mác về 
				mặt kinh tế đă phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu tồn tại của đảng 
				nhưng cơ chế nhà nước toàn trị sắc máu theo kiểu Lê Nin, Stalin 
				chẳng những được duy tŕ mà c̣n củng cố chặt chẽ và nâng cấp kỹ 
				thuật cao hơn. Dù ngoài miệng có hát bài “ḥa hợp ḥa giải” thắm 
				đượm t́nh dân tộc, bên trong, các chính sách của đảng vẫn luôn 
				kiên tŕ với mục tiêu toàn trị và bất cứ ai đi ngược với mục 
				tiêu đó đều bị triệt tiêu không thương xót. 
				
				
				
				Dưới chế độ Cộng Sản, không những người dân bị ràng buộc vào bộ 
				máy mà cả các lănh đạo cũng sinh hoạt trong khuôn khổ tổ chức và 
				nghiêm chỉnh thực thi các nguyên tắc lănh đạo độc tài sắc máu do 
				đảng của họ đề ra. Điều đó giải thích lư do giọng điệu của những 
				cựu lănh đạo Cộng Sản như Vơ Văn Kiệt, Nguyễn Văn An, Nguyễn 
				Khoa Điềm sau khi rời chức vụ giống như những người vừa được 
				giải phẫu thanh quản, nói dễ nghe hơn nhiều so với thời c̣n 
				trong bộ máy cầm quyền. Họ không phải là những người “buông dao 
				thành Phật” nhưng chỉ v́ họ đă trở về với vị trí một con người 
				b́nh thường, ít bị ràng buộc trong cách ăn cách nói, cách hành 
				xử, cách khen thưởng và trừng phạt như khi c̣n tại chức. 
				
				
				
				Giới lănh đạo Cộng Sản được trui rèn trong tranh đấu, được huấn 
				luyện chính trị từ cấp đội, cấp đoàn trước khi giữ các vị trí 
				then chốt trong đảng và nhà nước CS. Họ nắm vững tâm lư và vận 
				dụng một cách khéo léo tâm lư quần chúng để phục vụ cho các 
				chính sách của đảng trong từng thời kỳ. Sau biến cố Thiên An 
				Môn, để đánh lạc hướng cuộc đấu tranh đ̣i dân chủ của thanh niên 
				sinh viên, nhà cầm quyền Cộng Sản Trung Quốc khai thác ḷng căm 
				thù chính sách quân phiệt của Nhật đă xảy ra từ thế kỷ trước. 
				Lợi dụng việc Bộ Giáo dục Nhật bản liệt kê biến cố tàn sát Nam 
				Kinh như một tai nạn trong sách giáo khoa, nhà cầm quyền Trung 
				Quốc đă khuyến khích hàng chục ngàn thanh niên sinh viên Trung 
				Quốc biểu t́nh suốt 3 tuần lễ trước ṭa đại sứ Nhật. Việt Nam 
				cũng thế. Trong chiến tranh biên giới 1979, các lănh đạo CSVN đă 
				lần nữa sử dụng thành công viên thuốc độc bọc đường “bảo vệ tổ 
				quốc”.
				
				
				Máu của hàng vạn thanh niên Việt Nam đổ xuống dọc biên giới Việt 
				Trung phát xuất từ t́nh yêu quê hương trong sáng và đáng được 
				tôn vinh, tuy nhiên, nếu dừng lại một phút để hỏi, họ thật sự 
				chết v́ tổ quốc hay chỉ để trả nợ xương máu giùm cho đảng CSVN? 
				
				
				
				Với tất cả thông tin được phơi bày, tài liệu được giải mật cho 
				thấy, cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” mà giới lănh đạo CSVN đưa 
				ra thực chất chỉ là cái cớ. Không có một người lính Mỹ nào đến 
				Việt Nam, đảng vẫn cộng sản hóa miền Nam cho bằng được. Bộ máy 
				tuyên truyền tinh vi của đảng thừa khả năng để nghĩ ra hàng trăm 
				lư do khác để đánh miền Nam. Đảng CSVN là nguyên nhân khiến cho 
				nhiều triệu người Việt vô tội ở hai miền đă phải chết một cách 
				oan uổng, bao nhiêu thế hệ bị tiêu vong, bao nhiêu tài nguyên bị 
				tàn phá và quan trọng nhất, chiếc c̣ng Trung Cộng mà đảng thông 
				đồng để đeo trên cổ dân tộc Việt Nam mỗi ngày ăn sâu vào da thịt 
				nhưng không biết làm sao tháo gỡ xuống đây. Nói theo cách viết 
				của nhạc sĩ Việt Khang “Việt Nam ơi thời gian quá nửa đời, và ta 
				đă tỏ tường rồi”, chiến tranh xảy ra tại Việt Nam mà không ở đâu 
				khác chỉ v́ Việt Nam có đảng Cộng Sản Việt Nam.
				 
				
				
				
				Ngoại trừ các em, các cháu bị nhào nặn trong nền giáo dục ngu 
				dân một chiều chưa có dịp tiếp xúc với các nguồn thông tin khách 
				quan khoa học, nếu hôm nay, những người có học, biết nhận thức 
				mà c̣n nghĩ rằng cuộc chiến kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 
				1975 là cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước”, những kẻ đó hoặc bị tẩy 
				năo hoàn toàn hoặc biết ḿnh sai nhưng không đủ can đảm để thừa 
				nhận ra nguồn gốc sâu xa của cuộc chiến Việt Nam và tự dối ḷng 
				để tiếp tục sống cho hết một kiếp người. 
				 
				
				
				Sau 40 năm, “hàng triệu người buồn” như ông Vơ Văn Kiệt nói, nếu 
				chưa qua đời, hôm nay vẫn c̣n buồn. Nhưng người buồn không phải 
				chỉ từ phía những người lính Việt Nam Cộng Ḥa bị buộc buông 
				súng, từ phía nhân dân miền Nam bị mất tự do mà c̣n là những 
				người miền Bắc, cả những người trong đảng CS đă biết ra sự thật, 
				biết ḿnh bị lừa gạt, biết ḿnh đă dâng hiến cả một cuộc đời 
				trai trẻ cho một chủ nghĩa độc tài, ngoại lai, vong bản. 
				
				
				
				Không hiểu đúng tại sao chủ nghĩa CS đến Việt Nam sẽ không có 
				một cách thích hợp để đẩy CS đi ra khỏi Việt Nam. Và tương tự, 
				không hiểu đúng quá khứ, sẽ không có hành động đúng v́ tương lai 
				đất nước.
				
				
				Gần mười năm trước tôi kết luận bài viết về ngày 30 tháng 4 bằng 
				ba phân đoạn dưới đây và năm nay, tôi kết luận một lần nữa cũng 
				bằng những ḍng chữ đó để chứng minh một điều, tuổi trẻ của tôi 
				có thể qua đi nhưng niềm tin vào tuổi trẻ trong tôi vẫn c̣n 
				nguyên vẹn. 
				
				
				Như lịch sử đă chứng minh, chính nghĩa bao giờ cũng thắng. Không 
				có vũ khí nào mạnh hơn sức mạnh đoàn kết dân tộc. Chỉ có sức 
				mạnh Đoàn Kết Dân Tộc, chúng ta mới có khả năng bảo vệ được chủ 
				quyền và lănh thổ Việt Nam, chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc 
				chúng ta mới có khả năng vượt lên những hệ lụy quá khứ để hướng 
				vào tương lai tươi sáng cho đời đời con cháu mai sau và chỉ có 
				sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả năng phục hồi sự 
				kính trọng Việt Nam trong lân quốc cũng như trong bang giao quốc 
				tế. 
				
				
				Ngày 30 tháng 4, ngoài tất cả ư nghĩa mà chúng ta đă biết, c̣n 
				là ngày để mỗi chúng ta nh́n lại chính ḿnh, ngày để mỗi chúng 
				ta tự hỏi ḿnh đă làm ǵ cho đất nước, và đang đứng đâu trong 
				cuộc vận hành của lịch sử hôm nay. Mỗi người Việt Nam có hoàn 
				cảnh sống khác nhau, quá khứ khác nhau, tôn giáo khác nhau và 
				mang trên thân thể những thương tích khác nhau, nhưng chỉ có một 
				đất nước để cùng lo gánh vác. Đất nước phải vượt qua những hố 
				thẳm đói nghèo lạc hậu và đi lên cùng nhân loại. Không ai có 
				quyền bắt đất nước phải đau nỗi đau của ḿnh hay bắt đất nước 
				phải đi ngược chiều kim lịch sử như ḿnh đang đi lùi dần vào quá 
				khứ. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam không nằm trong tay thiểu số 
				lănh đạo CSVN. Tương lai dân tộc không nằm trong tay thiểu số 
				lănh đạo CSVN. Sinh mệnh dân tộc Việt Nam do chính nhân dân Việt 
				Nam quyết định. Và do đó, con đường để đến một điểm hẹn lịch sử 
				huy hoàng cho con cháu, chính là con đường dân tộc và không có 
				một con đường nào khác. 
				
				
				Bốn mươi năm là một quăng đường dài. Chúng ta đă hơn một lần trễ 
				hẹn với non sông, nhưng không phải v́ thế mà không c̣n cơ hội. 
				Cơ hội vẫn c̣n đó nếu chúng ta biết đoàn kết, thấy được hướng đi 
				chung của dân tộc và thời đại. Chúng ta có nhiều quá khứ nhưng 
				đất nước chỉ có một tương lai, đó là tương lai tự do, dân chủ, 
				nhân bản và khai phóng cho những ai, sau những điêu tàn đổ vỡ, 
				c̣n biết nhận ra nhau, c̣n biết yêu thương mảnh đất thiêng 
				liêng, vinh quang và thống khổ Việt Nam.
				
				
				Trần Trung Đạo