GIỚI, đường đến Thiên đường
(trích)
Hiền Tài Lê Văn Thêm (Tự Bạch Y)
Thói thường, con người với tánh nết tán kỷ hủy tha, khenḿnh chê
người nên hay nói. Có người để khen ḿnh mà nói, để chê người mà
nói, phải cũng nói, quấy cũng nói, đúng cũng nói, sai cũng nói,
hay cũng nói, dở cũng nói, nói măi rồi đâm ra quen nói hay dở,
phải quấy, đúng sai, tốt xấu v.v. toàn là những chuyện thị phi.
Thị có nghĩa là phải. Phi có nghĩa là quấy. Nếu cứ nói phải nói
quấy th́ phải quấy biết đến chừng nào mới xong v́ ít ai nhận
ḿnh quấy mà thường chỉ thấy ḿnh phải. Có câu:
“Thuyết thị thuyết phi hà nhật liểu,
Vô minh hải hoạt ngă sơn cao”.
Nghĩa là nếu cứ nói phải nói quấy th́ biết đến ngày nào mới nói
hết được. Càng nói th́ càng làm cho sự mê muội, sự vô minh của
ḿnh càng thêm rộng lớn như biển cả mênh mông và cái ngă của
ḿnh càng cao như núi. Chính cái ngă này đă bại hoại con người,
khiến con người tán kỷ hủy tha. Thật vậy, nếu thấy ngă tướng
ḿnh cao th́ theo sau đó ngă kiến của ḿnh là hay là đúng, ai
đụng tới th́ chẳng chịu thua. V́ thấy ngă tướng, ngă kiến cao
nên từ đó sanh ra càng ái ngă, thương nó và bảo vệ nó bằng bất
cứ giá nào. Từ ngă tướng, ngă kiến, ngă ái đưa đến ngă mạn, xem
thường mọi sự, mọi vật, mọi người. Đây là cái bệnh chấp ngă.
Người chấp ngă thấy ngă cao có ba thứ tâm bệnh:
a/- Dễ coi thường, dễ khinh khi người khác:
Coi thường hay khinh khi người khác là một cái tội v́ con người
ai cũng có Chơn Linh và mọi Chơn Linh đều b́nh đẳng khi Thầy
ban, chỉ khác nhau ở chỗ mê hay ngộ khi đă nhập thế mà thôi.
Thầy ban cho các con Thầy mỗi người một Chơn Linh đồng đều,
không ai hơn, không ai kém. Vậy coi thường bất cứ người nào là
không trọng Chơn Linh màThầy đă ban đồng đều cho các con của
Thầy vậy.
Người thấy ngă ḿnh cao hễ bị chê là hờn giận, dễ nổi sân, mà
sân si là một trong tam độc, một trong thập ác đối với người tu.
Nếu phạm phải sân, cửa Thiên đ́nh liền đóng, v́ muốn
đến được Thiên đ́nh th́ phải hành tŕ Thập Thiện, mà một
trong Thập Thiện là tránh được sân. Thầy có dạy:
“Tŕnh ta ta sẽ đở nâng chơn,
Khuyên một điều con khá giảm hờn.
Hễ ghét người th́ Trời ghét lại,
Ghét người Trời ghét lẽ nào hơn”.
Nghĩa là các con Thầy nếu người nào muốn trở về ngôi vị cũ hăy
đến tŕnh Thầy. Thầy sẽ chỉ cho nẽo CHƠN để tránh nẽo HƯ, cái
THẬT để tránh cái GIẢ. Trước tiên, Thầy khuyên đến tŕnh Thầy và
tiếp theo đó Thầy khuyên hăy giảm hờn tức đừng nổi sân, đừng
ghét bỏ ai v́ hễ ghét người th́ bị Trời ghét vậy.
c/- Dễ vị kỷ và ác độc:
Thật vậy, người chấp ngă cái ǵ cũng muốn ḿnh hơn, chỉ nghĩ cho
ḿnh. Đó là vị kỷ. Càng vị kỷ th́ lại càng ác độc. Sở dĩ chê
người khác là để đưa ḿnh cao thêm, để tăng cái ngă của ḿnh,
chẳng cần biết đến sự đau khổ của người bị chê, thế là ác độc.
Khen chê, nói phải quấy, nói đúng sai là cố ư phô bày cái dở,
cái quấy, cái sai của người khác và chỉ có ḿnh là hay, là phải,
là đúng, là tốt, là giỏi mà thôi.
Tuy nhiên nếu xét kỹ, đúng và sai có phải tuyệt đối đúng và sai
không; tốt và xấu có phải tuyệt đối tốt và xấu không; phải và
quấy có tuyệt đối là phải và quấy không, v.v.? Không phải như
vậy.
Cách thấy vừa nói chỉ là cách thấy biên kiến, phiến diện, hai
bên đối đải, chớ không phải là chơn lư. Sự thật không có cái ǵ
tuyệt đối, cố định cả, mà mọi sự vật luôn luôn biến đổi. Cùng
một sự việc mà có thể đúng nơi này, sai nơi khác, đối với người
này th́ phải, người kia th́ quấy, v..v..tức tùy thuộc vào không
gian, thời gian, cá nhân hay tập thể. Xin đơn cử những thí dụ
như sau:
1)- Đúng sai:
Đúng sai không tuyệt đối cố định mà luôn luôn biến đổi.
Đúng sai tùy thuộc vào không gian thời gian và con người.
- Về không gian: như
tại nước Anh và các nước thuộc Khối Thịnh Vượng Chung
(Commonwealth) th́ người ta lái xe bên tay trái đường lộ. Vậy
lái xe tay trái là đúng mà lái bên tay phải là sai. Trái lại,
tại nhiều nước khác, rơ nhất là nước Pháp, lái xe tay trái là
sai mà lái bên tay phải mới đúng. Chỉ cách nhau về không gian có
30 cây số với eo biển Manche mà đúng, sai khác biệt hoàn toàn,
quá rơ ràng.
- Về thời gian: như
tại nước Tàu và vài nước kế cận, trước đây vua là Thiên tử. Vua
muốn giết ai cũng được. Bề tôi trung với vua khi vua bảo chết là
phải chết. “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” mà h́nh ảnh
Tỷ Can là điển h́nh. Thử hỏi ngày nay quốc trưởng nước Tàu c̣n
có thể bảo người nào th́ tự động người ấy phải tự tử được không.
Chắc chắn là không. Thời gian đă làm thay đổi. Ngày xưa đúng,
ngày nay sai. Đúng sai tùy thuộc vào thời gian.
- Với con người:
đúng, sai tùy căn cơ, tùy nhận thức của mỗi người. Chuyện kể có
một cặp vợ chồng ra đồng làm việc, chồng đui, vợ điếc. Khi cả
hai đang gặt lúa, bỗng có vua đi qua ở trên lộ xa xa. Đoàn của
vua đi cờ xí rợp trời, trống chiêng inh ỏi. Người vợ hỏi chồng
cái ǵ vậy. Chồng v́ đui chẳng thấy mà chỉ nghe nên bảo rằng
tiếng kèn, trống, chiêng ḥa nhau nghe vui quá. Người vợ v́ điếc
căi lại tiếng kèn, trống, chiêng đâu có chỉ có cờ xí phất phới
thôi. Hai người căi nhau rồi giận nhau bỏ về không gặt lúa nữa.
Như vậy hỏi ai đúng, ai sai. Không ai hoàn toàn đúng mà cũng
không ai hoàn toàn sai. Đúng sai là tùy căn cơ, tùy cái nghe,
cái thấy, cái nhận thức của mỗi người. Đúng sai không tuyệt đối,
cố định mà chỉ tương đối thôi.
2)- Phải quấy:
Phải quấy cũng vậy. Phải quấy không cố định mà biến đổi tùy nơi,
tùy lúc. Như tại các nước theo Hồi Giáo, người đàn ông được
quyền có 4 vợ. Như vậy, chánh thức có 4 vợ là phải chớ không
quấy chút nào cả. C̣n tại Hoa Kỳ hay Việt Nam và nhiều nuớc
khác, người đàn ông có hai vợ đă là quấy lắm rồi, đừng nói chi
tới ba bốn. Như tại nước Úc chẳng hạn, theo luật th́ bất cứ ai
có hai vợ là phạm tội, đă thành tội rồi chớ không c̣n nói chi
phải quấy nữa.
Thí dụ thứ hai là thời xưa ở Việt Nam, con gái cha mẹ đặt đâu
ngồi đó. Vậy là phải, căi lại là quấy. Ngày nay, phần lớn ở Việt
Nam đă khác, nhưng đặc biệt ở ngoại quốc như nước Úc chẳng hạn,
hầu như con đặt đâu coi được được là cha mẹ sẽ ngồi đó vậy,
không có quấy chút nào cả. Văn hóa Úc như thế, không có ǵ quấy
mà là như vậy.
3)- Thiện ác:
Thiện ác cũng vậy. Cũng cùng một sự việc mà đối với người này là
thiẹân, đối với kẻ kia th́ ác. Như một con chồn, vào một buổi
chiều trời sắp tối. Nó rượt theo con gà để bắt làm mồi ăn và tha
về cho con nó ăn. Có một cậu bé thấy vậy, muốn cứu con gà nên
đuổi con chồn đi. Chú chồn chạy đi và không bắt được con mồi.
Đêm đó nó nhịn đói và con nó cũng bị đói. Vậy với chú chồn th́
cậu bé là ác v́ làm cho mẹ con nó đói. Nhưng với cậu bé th́ cậu
đă làm một việc thiện cứu được con gà. Vậy cũng một sự việc mà
thiện ác không cố định mà tùy nơi, tùy lúc, tùy người mà trở
thành thiện hay ác.
4)- Đúng với đúng là sai:
Xin được kể ra đây câu chuyện “Phong Phang”. Lục Tổ Huệ Năng
được Ngũ Tổ Hoàng Nhẩn trao Y bát để làm tổ Thiền Tông thứ 6 lúc
Ngài Huệ Năng vẫn c̣n là một cư sĩ chớ chưa phải tu sĩ. Ngũ Tổ
ban đêm đưa Ngài ra bến đ̣ chạy về phương Nam. Phe Thượng Tọa
Thần Tú đuổi theo để lúc phải sống với bọn thợ săn và đi săn
thú. Khi Ngài đến được Quảng Châu vào sân chùa Pháp Tánh lúc
Pháp Sư Ấn Tông đang giảng Kinh Niết Bàn. Ngoài sân chùa có hai
vị tăng căi nhau măi không thôi về việc lá phướng treo trong sân
chùa đang bay trước gió. Một vị tăng nói phướng động. Vị tăng
khác nói gió động. Không ai chịu thua. Ai cũng cho rằng ḿnh
đúng không chịu ḿnh sai. Tổ Huệ Năng bèn tiến đến bảo: “Không
phải gió động, cũng không phải phướng đọâng, mà tâm của hai ông
động”. Thật là một câu nói đầy bất ngờ từ một cư sĩ. Câu nói này
có nghĩa cả hai vị tăng, mỗi người đều tự cho ḿnh đúng, nhưng
cả hai đều không đúng, mà cả hai đều sai.
Sở dĩ Tổ nói không phải phướng động, cũng không phải gió động là
v́ nếu có lá phướng mà không có gió th́ lá phướng làm sao động
được. Nhưng nếu có gió mà không có lá phướng treo trên cột
phướng th́ gió cũng không thể làm cho phướng bay được. Nh́n vào
cột phướng đứng im ĺm th́ nào thấy động được. Động ở đây là
tướng duyên hợp, do hai hay nhiều yếu tố hợp lại mà thành tức có
duyên hợp mới có động, không duyên hợp th́ không động. Động là
do hai yếu tố gió và phướng hợp lại, nếu chỉ nh́n một mà nói th́
sai.
Tại sao Tổ lại bảo tâm hai vị tăng động? V́ hai vị tăng chấp và
chỉ chấp có một bên. Khi chấp là dấy niệm để chấp. Dấy niệm th́
phải dùng tâm. Dấy niệm do dùng tâm th́ tức nhiên tâm động. Do
đó mà nói tâm động. Ở đây Lục Tổ muốn chỉ thẳng cái gốc của sự
căi nhau là do tâm chấp. Mà hễ dấy niệm chấp là có tranh căi, và
động là từ cái chấp đó mà ra. Câu chuyện “Phong Phang” trong
Kinh Pháp Bảo Đøàn muốn bảo người đời rằng: lời nói thường chỉ
phiến diện thôi chớ không đạt được Chân Lư. Người đời v́ chưa
tỉnh giác vẫn c̣n mê muội nên thường hay tranh hơn thua qua lời
nói. V́ thế cũng trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ có dạy rằng:
“Người mê miệng nói, người trí tâm hành”. Mà Đức Lăo Tử từ trước
cũng đă dạy: “Hành bất ngôn chi giáo”, là v́ theo Đức Ngài cái
sai là bề trái của cái đúng, cái quấy là bề trái của cái phải,
cái ghét là bề trái của cái thương, thương ghét là một không có
ǵ khác nhau, mới thương đó rồi ghét đó, mới quấy đó rồi phải
đó, mới sai đó rồi đúng đó.
Ở đời có ai quấy măi đâu. Cũng có lúc làm phải. Ở đời có ai nói
sai măi đâu, cũng có lúc nói đúng. Phải quấy, đúng sai cũng từ ở
một người, chỉ hiềm v́ mê mà quấy và sai, c̣n tỉnh th́ đúng và
phải. Tất cả chỉ do tâm mê hay tỉnh. Do biết người đời nhiều mê
ít tỉnh, nhận vọng tâm cho là ḿnh, nhận giặc làm con (theo như
lời nói của Đức Phật), chớ không thấy được Chơn Tâm nên Đức Lăo
Tử khuyên người đời nếu muốn được Đạo đừng có nh́n sự vật bằng
cặp mắt nhị nguyên, chia phân nhị ngă mà phải thấy cả thảy đều
là “Một”.
Người tín đồ Cao Đài hằng ngày cúng tứ thời thường nh́n thấy
“Một” đó là Thiên Nhăn. Dù vậy, khi hết cúng đi về quên đi, cũng
có người chấp nhị nguyên, nhị ngă rồi sinh ra bất đồng ư với
nhau. Có ǵ là nhị nguyên, nhị ngă đâu. Cùng một người, nhưng có
khi người ấy nói sai, làm quấy mà cũng có khi người ấy nói đúng,
làm phải, chớ nào phải đó là hai người, là nhị ngă. Sở dĩ người
đời phiền năo nhiều, khổ đau nhiều là cũng do chấp nhị ngă, nhị
nguyên, tức chấp hai bên. Nh́n “Sự” hay “Tướng” th́ có hai bên
nhưng đạt Lư hay Tâm th́ không có. Giáo lư “Pháp Môn Bất Nhị”
của nhà Phật có giải rơ giáo pháp này và Lăo Giáo cũng có đề cập
với “thuyết Tương Đối”. Trong Kinh Cơ của Đạo Cao Đài cũng thế,
cũng có đề cập đủ cả, chỉ hiềm v́ Tạng Luận chưa được khai
triển.
Trở lại với Đạo Lăo, cái mà Đức Lăo Tử chống đối là nh́n mọi sự
vật trên thế gian này, nh́n cuộc đời bằng khối óc phân chia dài
ngắn, cao thấp, đúng sai, phải quấy, tốt xấu, thiện ác, khen
chê, .v.v. .Sự phân chia như vậy là sai, là trái Đạo. Sự thật
chúng không rời nhau, chúng tương tùy, tương sinh. Thí dụ có cao
mới thấy thấp, có ngắn mới thấy dài. Thử đem cây thước học tṛ
gạch hàng giấy tập vở so với cây thước dài một thước của thợ mộc
th́ cây trước ngắn hơn cây sau. Nhưng nếu đem cây thước của
người thợ mộc so với cây thước giây của người thợ may dài hơn
hai thước th́ đến luợt cây thước mà ta nói dài tức cây thước của
người thợ mộc lại trở thành ngắn. Nếu đem cây thước giây của
người thợ may so với giây thước của một trắc địa sư đo đất th́
từ dài, cây thước của người thợ may tự nó trở thành ngắn, . v.v.
. Dài ngắn chỉ tương tùy, tương sinh, tương đối chớ không tuyệt
đối. Có dài có ngắn là do sự phân biệt hữu lậu mà ra.
Cao thấp, tốt xấu, khen chê, v.v. cũng vậy. Tất cả đều tương
đối, tương sinh. Không có cái này th́ chẳng có cái kia. Đức Lăo
Tử nói: “Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản
tương h́nh, cao hạ tương khuynh, tiền hậu tương tùng” để chỉ sự
tương sinh, tương tùy, tương đối, v.v. . Sở dĩ người đời phân
chia cho đó là hai là v́ óc phân biệt mà ra chớ nào phải là hai.
Đă biết vậy th́ đừng nên nói hơn thua, cao thấp, có không, tốt
xấu, khen chê. Nếu lấy óc phân chia này để so sánh, chỉ trích,
phê b́nh nhau là điều chẳng nên làm. Lập ngôn mà cứ chỉ trích,
phê b́nh nhau, không xa rời óc nhị phân, nhị ngă th́ càng ngày
càng xa Đạo.
Con người nếu muốn được Đạo th́ phải bỏ cái óc chia phân. Đức
Lăo Tử gọi đó là “Giải Kỳ Phân” mà các thí dụ trong bài này về
đúng sai, phải quấy, v.v. đă có giải phần nào dù chỉ rất ít
thôi.
Với Thuyết Tương Đối và giáo pháp Giải kỳ Phân, Đức Lăo Tử muốn
chỉ cho thấy bậc Thánh Nhân sở dĩ đạt đến Đạo tức trạng thái
Tuyệt Đối chỉ v́ biết rơ ḿnh có mắc bệnh nhị nguyên, phân chia
nhị ngă. Do biết có cái bệnh phân tán đó nên đă pḥng ngừa và
tỉnh ngộ. Đức Lăo Tử nói: “Phù duy bệnh bệnh, thị dĩ bất bệnh”,
nghĩa là biết ḿnh có tâm bệnh th́ tâm bệnh đó sẽ được trị hết.
Tâm bệnh này là cái bệnh cứ nói đúng, nói sai, nói phải, nói
quấy rồi khen chê, thương ghét, v.v. Đúng sai nào có khác hai bề
mặt của một đồng tiền, đúng đó rồi cũng có thể sai đó. Phải quấy
cũng do một người, chỉ v́ tâm bệnh mà ra. Có ǵ là hai, có ǵ cố
định. Vậy th́ c̣n khen chê làm chi, thương ghét làm ǵ. Nếu cần
phải khen là cốt để khuyến thiện, cốt để giúp người được vui
tươi hạnh phúc, ổn định tâm hồn. Nếu cần phải thương là để cứu
người sa cơ, thất thế, già cả, tật nguyền hay gặp hoạn nạn, đó
là hành thiện tạo nghiệp lành. C̣n phỉ báng chê người, hay hờn
giận ghét người chỉ có chuốc lấy ác nghiệp mà thôi.
Muốn “vô ngôn hành” được như lời Đức Lăo Tử khuyên để tạo phước
huệ, để đạt Đạo th́ phải dùng Trí như Đức Ngài đă dạy. Trí đây
là Trí Đạo tức Trí Tuệ Giải Thoát mà nhà Phật gọi là Trí Tuệ Bát
Nhă, Đạo Cao Đài gọi là Trí Vô Đối chớ không phải trí thế gian.
Trí Đạo hay Trí Tuệ Giải Thoát, theo tôn giáo Cao Đài, là trí
thấy được “Nhược thiệt nhược hư; Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa;
thị không thị sắc; vô vi nhi dịch sử quần linh” và c̣n nhiều nữa
bàng bạc trong Kinh và Cơ Đại Đạo. C̣n trí thế gian là trí làm
cho mạnh được yếu thua, khôn c̣n dại mất…
Về trí thế gian th́ Đức Lăo Tử chê lắm. Trong Đạo Đức Kinh, Đức
Ngài có nói như sau: “Đại trực nhược khuất, đại xảo nhược
chuyết, đại biện nhược nột”, nghĩa là rất thẳng dường như cong,
rất khéo dường như vụng, rất hùng biẹân dường như lấp bấp ấp úng
vậy.
Có người khéo nói, nói giỏi, thường nói thao thao bất tuyệt để
tranh biện, chứng tỏ rằng ḿnh giỏi, ḿnh hơn người, lư luận
ḿnh sắc bén, v.v. để rồi từ đó thấy người thua, người dở, mà
nào có biết đâu khi ḿnh càng trở tài hùng biện, phóng chạy theo
sự tướng th́ tâm ḿnh chỉ chứa chấp toàn vọng niệm điên đảo của
thế gian chớ nào phải tâm Đạo. Dùng trí thế gian để hơn thua,
theo vọng tâm để tranh chấp, chỉ cốt làm bại hoại cái tâm Đạo mà
thôi.
C- Phần A và B đă bàn về Vọng ngữ, Xảo ngữ, Lưỡng ngữ
Con người bản ngă vốn ham sống và bảo vệ cuộc sống của ḿnh bằng
mọi cách. Theo triết gia Pháp Henri Bergson th́ đây là một thực
tế. Triết gia Bergson mô tả sức sống mănh liệt của con người
(élan vital) qua hai bản năng. Đó là bản năng sinh tồn (instinct
de conservation) và bản năng tàn phá (instinct de destruction).
Hai bản năng này làm cho con người thiên về ác hơn là thiện.
V́ để bảo vệ ḿnh (instinct de conservation) nên bằng mọi cách
con người phải diệt trừ tất cả mọi mầm mống, mọi yếu tố, mọi sự
vật có thể làm hại đến ḿnh. Rồi với cái đà sức sống vươn lên
(élan vital) con người phải tàn phá tất cả những ǵ cản trở
đường ḿnh đi, con đường tiến thủ của ḿnh. Do đó mà trong việc
làm hay lời nói, con người thường hay t́m cách vùi dập, đè bẹp
người khác, dù cho việc làm ấy có đúng hay sai đối với lương
tâm, con người vẫn thường làm. Làm và nói để chứng tỏ ta hay
người dở, ta đúng người sai, ta phải người quấy, ta tốt người
xấu, và nhất là ta cao và mọi người đều thấp hơn ta. Tất cả việc
làm, lời nói càng ngày càng làm cho con người giảm thiện tăng ác
nếu chẳng biết tu đúng theo con đuờng Chơn Đạo.
Biết rơ người thế gian như vậy nên Đức Chí Tôn trước đây đă lần
lượt sai các con Ngài xuống trần lập Đạo để dạy người đời tránh
ác làm lành. Ngày nay, Đức Chí Tôn tự Ngài giáng trần dạy Đạo
với nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Ngài đă qui Tam Giáo, hiệp Ngũ
Chi, v́ vậy mà trong giáo lư Đạo Cao Đài có tất cả tinh túy giáo
lư của tất cả các Đạo khác, trong đó việc hành thiện tránh ác là
một Giáo pháp.
Đức Chí Tôn dạy các con Ngài một khi đă nhập môn rồi th́ phải
giữ ǵn ngũ Giới, mà trong Ngũ Giới th́ ngữ Giới là khó nhất, vi
tế nhất, phạm hay không thường ở tại Giới này. Thật vậy, giết
người, trộm cắp hay tà dâm rất dễ tránh, nhưng nói làm cho người
đau khổ mà có khi ḿnh hầu như không hay biết, thật khó tránh.
Đây là một nét vi tế về ác ngữ, do ác khẩu mà ra. Chính v́ sự vi
tế của ngôn ngữ mà Thầy khuyên bảo các con Thầy nên thận trọng
cẩn ngôn, ít nói càng tốt, không nói càng hay.
Không nói đây chẳng phải không nói ǵ cả v́ nếu không nói ǵ cả
th́ con người làm sao giao tiếp với nhau được. Có nhiều người
hiểu lầm chỗ này rồi tịnh khẩu, không nói lời nào, nhưng đi đâu
th́ cầm theo cây viết và tờ giấy. Hễ muốn hỏi ǵ ai th́ viết ra
và có ai hỏi ǵ th́ không trả lời thành tiếng mà chỉ viết trên
giấy để trả lời thôi. Họ không biết rằng đó cũng là một trong
nhiều cách nói. Người ta có thể nói bằng cách ra dấu, bằng hành
động (body language) như đưa hai tay lên là nói đầu hàng, nhăn
mặt là nói đau hay nói không đồng ư, v.v. Như vậy dù lời không
nói nhưng ư lại có nói.
Tóm lại, như trên đă tŕnh bày, lời nói tự nó không có. Nó do 8
duyên hợp mà thành. Trong 8 duyên hợp này quan trong nhất là ư
(năo). Lời nói là do từ ư mà nói. Không nói là không có ư để
nói. Ưù là chủ, là thể mà lời chỉ là dụng, là phương tiện mà
thôi. Nếu con người không có ư th́ làm sao nói ra lời được. Như
vậy, không nói lời ác là tự nơi ư đă không ác rồi.. Tương quan
giữa lời nói và ư mật thiết như vậy.
Do đó, hễ tránh được ư ác th́ sẽ không có nói ác. Điều quan
trọng là phải tránh từ ư để không gây ra Thân nghiệp và cả Khẩu
nghiệp, chớ lời nói th́ khi cần con người vẫn phải nói. Nhưng
cần đây là cần những ǵ?
Phàm con người ai cũng thích nghe lời nói êm tai, lời nói thiện
lành. Cái mà con người cần, đó là lời nói nho nhă, thanh tao,
ngay thẳng thật thà, thương yêu đoàn kết, an ủi lẫn nhau, v.v..
Vậy để vừa ḷng người cũng như thuận ḷng Trời (thuận nhơn tâm
ắt thuận Trời), người tu nếu cần phải nói th́ nên nói những ǵ
có đạo lư, thiẹân lành và nên tránh những lời nói ác.
Thầy có dạy rằng:
“Nho nhă con tua tập tánh t́nh,
Ở đời đừng tưởng một ḿnh lanh.
Một câu thất đức thiên niên đọa,
Nhiều nồi trầm luân bởi ngọn ngành”.
Chỉ một câu thất đức thôi là có thể bị đọa đến cả ngàn năm. Vậy
nói thất đức, nói ác làm chi để phải bị trầm luân. Nói ác là nên
tránh. Tránh được nói ác cũng là một bước trong 10 bước tiến tu
lên Thập Thiện.
Muốn đạt đến Thập Thiện để siêu thăng, trước tiên người tu phải
giữ Giới cấm, dừng thất ác v́ trong Ngũ Giới Cấm của Đại Đạo có
đến 8 điều cấm chớ không phải chỉ có 5 thôi. Dừng thất ác là
bước đầu để hành tŕ Thất Thiện. Thất Thiện đo là:
1- Thay v́ sát sanh, nên phóng sanh.
2- Thay v́ trộm cắp, nên bố thí.
3- Thay v́ tà dâm, nên giữ trong trắng, trinh bạch.
4- Thay v́ nói láo, nên nói thật.
5- Thay v́ nói thêm bớt, thêu dệt, nên nói ngay thẳng, trung
chính.
6- Thay v́ nói đâm thọc, nên nói lời ḥa hợp, đoàn kết.
7- Thay v́ nói lời độc ác, nên nói nho nhă thanh tao, thiện
lành, thương yêu ḥa ái, an ủi người.
C̣n ba thiện nữa là phải tránh tam độc: Tham, Sân, Si (tà kiến).
Tam độc này rất khó tránh, dù vậy cũng tránh được, và trong Kinh
Cơ Đại Đạo cũng có dạy.
Để có thể tránh tam độc, hoàn thành tam thiện cuối cùng, điều
quan trọng là người tu phải cố gắng trước tiên hành tŕ tam
thiện về thân và tứ thiện về ngôn. Đặc biệt về ngôn, người tu
nên thận trọng cẩn ngôn và luôn luôn nhớ rằng:
“Đạo bổn vô ngôn
Ngôn sinh lư tán
Ngôn ngữ Đạo đoạn”.
KẾT LUẬN
1)- Muốn giữ được kiếp làm người trong Luân hồi, người tu nói
riêng hay con người nói chung phải giữ ǵn ngũ Giới, nói khác
hơn giữ được Ngũ Giới là giữ được kiếp làm người trong tái kiếp
mai sau.
2)- Muốn được siêu thăng “Thiên Đàng liền đến” như lời Lục Tổ
Huệ Năng đă nói, người tu phải cố gắng hành tŕ Thập Thiện.
Trong hạnh hành tŕ Thập Thiện th́ việc tránh được ba nghiệp nơi
thân con người có thể thực hành không khó lắm. Có khó chăng là
bốn nghiệp về khẩu tức lời nói.
Riêng c̣n lại tam độc Tham, Sân, Si nếu muốn tránh được để kiện
toàn tam thiện cuối cùng th́ điều cần yếu trước tiên là con
người phải cố tỉnh thức, tránh khỏi Si mê. Càng tránh được Si mê
th́ con người càng tránh được Tham và Sân. Nói rơ hơn tránh được
Si mê càng nhiều th́ con người càng tránh được Tham, Sân và càng
dễ dàng đạt Đạo, giải thoát thành Phật, tránh được Luân hồi.
3)- Quyển sách nầy được viết với mơ ước, nhắn nhủ cùng nhau xa
lánh Luân hồi, mà mục đích trước tiên và hiện tại là phải làm
sao tránh được bốn nghiệp liên quan đến lời nói. Để tránh được
bốn nghiệp liên quan đến lời nói tức khẩu
nghiệp, xin được kể lại hai câu chuyện sau đây:
Câu chuyện thứ nhứt nói về một nhà Sư:
Có một nhà sư ngày nọ leo lên một cây cao. Có một người bất chợt
đi ngang qua thấy nhà sư đang ở trên cây cao mừng quá, v́ ngưới
ấy có một việc muốn hỏi nhà sư, nhưng từ lâu không gặp được.
Ngưới ấy hỏi nhà sư rằng:
“Vậy chớ ư của Tổ Sư Đông Độ là như thế nào?”
Nhà sư nh́n xuống định đáp th́ rủi xẩy chân té. Nhà sư quơ tay
nhưng thay v́ tay chụp trúng th́ miệng lại cắn được một cành
cây. Nhà sư lúc đó không làm sao dám hả miệng ra để trả lời v́
nếu hả miệng ra nói th́ sẽ bị rớt xuống đất, tan xương nát thịt.
C̣n câu chuyện thứ hai được rút ra từ quyển “Giai thoại nhà
Thiền” với tựa đề “Họa tùng khẩu xuất”.
Chuyện kể rằng thuở xưa có con rùa, gặp phải lúc hạn hán, nước
hồ ao đều cạn, không biết đi đâu cho có nước. Bấy giờ có hai con
hạc trắng đậu trên cây gần đó. Rùa vội vă nhờ hạc giúp ḿnh đến
chỗ có nước. Hạc thương t́nh hứa giúp đỡ nhưng trước khi đi lại
dặn rùa không được nói chuyện, sẽ có hại. Rùa vâng chịu. Hai con
hạc mới dùng mơ kẹp một sợi dây nhỏ và băo rùa ngậm vào. Thế rồi
hai con hạc bay lên hư không. Khi bay ngang một làng kia, gặp
trẻ nhỏ đang vui chơi nh́n thấy, nói với nhau rằng:
- Ư, ngộ quá bây ơi ! Hai con hạc với con rùa cơng với nhau ḱa.
Ư ngộ quá! Ư ngộ quá!
Rùa nảy giờ trong bụng hết sức nhẫn nhục, v́ nhớ lời hạc dặn .
Nhưng khổ nỗi, các trẻ nhỏ cứ trêu chọc măi, rùa mới hả miệng
định chửi các trẻ nhỏ, nhưng chưa thành lời th́ liền rơi xuống
đất và bị chúng bắt ăn thịt.
Do vậy, tất cả mọi người phải cẩn thận nơi miệng, nếu không sẽ
bị hại thân.
“Ai ơi ! ít nói là vàng,
Nói nhiều, nhiều lỗi trái ngang cũng nhiều.
Chi bằng ít nói bao nhiêu,
Khỏi điều phiền năo, khỏi điều thị phi.
Hằng ngày tam nghiệp vô vi,
Không tranh nhân quả có ǵ đảo điên.
Không nghiệp chướng, chẳng lụy phiền,
Vô ưu, vô năo, nương thuyền tiêu dao”
Người đời nên nói đúng lúc, đúng chỗ, đúng nơi, nên thận trọng,
cẩn ngôn. Nên lựa lời mà nói. Nên nói ít càng hay, chẳng nói ǵ
th́ càng tốt.
Chẳng nói ǵ cả đó là trường hợp của nhà sư. Nhà sư chẳng nói
một lời v́ nếu mở miệng ra th́ tan xương nát thịt. Lời nói nó
tai hại như vậy đó. Biết bao nhiêu người tán gia bại sản hay tan
nát xác thân cũng tại v́ lời nói mà thôi. Nói thiện, nói lành,
nói lời nho nhă thanh tao, thương yêu ḥa ái hay nói để an ủi
người, cứu vớt người th́ nên nói, bằng trái lại nói láo, nói
thêu dệt, thêm bớt, nói đâm thọc hay lời nói độc ác th́ trong
hiện đời chỉ tự chuốc họa vào thân và tái kiếp th́ chắc chắn
không làm sao tránh khỏi ngữ ngôn nghiệp chướng.
C̣n về chuyện con rùa: Câu chuyện nầy muốn nói với người đời
rằng chỉ v́ tâm c̣n Tham, Sân, Si, miệng c̣n ham ăn nói, chưởi
bới mắng nhiếc người mà con rùa phải tan xương nát thịt.
Có nhiều người ở đời cũng vậy. Chỉ v́ ham ăn ham nói, đôi khi
lại nói chẳng thiện lành mà chỉ toàn lời độc ác, v́ thế nên mới
rước họa vào thân, tự ḿnh chuốc lấy khổ đau mà lại c̣n gây khổ
đau cho bao nhiêu người khác nữa.
Để kết luận, xin ghi lại đây lời của người xưa thường nói:
Người xưa thường hỏi rằng tại sao mỗi con người ai cũng đếu có
hai lỗ tai, hai con mắt, hai lỗ mũi mà lại chỉ có một cái miệng?
Có hai lỗ mũi là để thở được nhiều không khí nuôi thân. Có hai
con mắt là để thấy rộng, biết nhiều, giúp con người dễ tỉnh thức
giác ngộ và lo tu hành. C̣n có hai lỗ tai là để giúp con người
nghe nhiều hơn là nói. Nếu chỉ thích nghe mà ít chịu nói th́ bảo
đảm sẽ được mọi người thương, an nhiên tự tại, dù không tu mà
khác nào đă có tu nhiều. Con thỏ nó đẹp là nhờ có hai tai đứng,
thẳng, cao và dài. Hai tai cao và dài giúp thỏ nghe nhiều, chạy
lẹ nên ít khi bị chết oan. Nếu hai tai của thỏ cũng ngắn, nhỏ và
hẹp th́ thỏ nào có khác chi mèo. Hai tai là để nghe, cái miệng
là để nói. Hai tai là để nghe nhiều, một miệng là để nói ít.
Càng nói ít chừng nào th́ càng tốt chừng nấy. Điều nên nhớ, như
thế nhân thường nhắc là “Con ếch nó chết chỉ v́ cái miệng mà
thôi”.
Càng ít nói, con người càng an toàn và càng dễ tránh khẩu
nghiệp.
Tránh được Khẩu nghiệp cũng như Thân nghiệp và Ư nghiệp, con
người sẽ dễ lên Thiên Đàng, dễ dàng thành Phật,
có câu:
“Tam nghiệp hằng thanh tịnh,
Đồng Phật văng Tây Phương”.
Soạn giả:
Hiền Tài Lê Văn Thêm (Tự Bạch Y)