Chủ đề:
Những điểm tuyệt vời của đạo Cao Đài,
Các tôn giáo khác không có.
Bài Hai:
Quan niệm về
Thiên Đàng và Địa Ngục
của Các Tôn Giáo và Cao Đài
Điền Lạc.
Tham khảo giáo lư các tôn giáo chủ yếu chỉ dựa vào kinh và luận
của tôn giáo đó. Công giáo th́ dựa vào Kinh Thánh và các bài
luận của các trang mạng của Giáo Hội. Phật giáo cũng vậy.
A-/ Thiên Đàng và địa ngục theo Công Giáo:
Xin trích một số ư tiêu biểu trên trang
https://dongten.net/...
“..Bên cạnh ư niệm Thiên Chúa, th́ ư niệm thiên đàng là một ư
niệm lớn nhất đi vào trong tâm tưởng nhân loại. Nếu thời nay nó
bị chối từ và bị công kích hơn trong quá khứ, th́ các người hộ
giáo ngày nay cần phải giải thích và bảo vệ ư niệm này tốt hơn
thời xưa và chắc chắn không để nó trôi đi hay phớt lờ nó.
Thậm chí có một điều khó để bảo vệ hơn là ư niệm thiên đàng là ư
niệm hỏa ngục. Thực vậy, hỏa ngục là một học thuyết Kitô giáo
khó bảo vệ nhất, một gánh nặng nhất để tin và là điều đầu tiên
đáng loại bỏ. Sự phê phán chống lại nó dường như rất mạnh, và
những người tin nó dường như không thể chịu nổi.
Trọng tâm của chương này là giải đáp những công kích của những
người vô tín chống lại thiên đàng và hỏa ngục.
Thiên đàng
Chúng tôi liệt kê dưới đây mười bảy vấn nạn về ư niệm thiên
đàng. ( có tất cả 17 vấn nạn người viết xin trích một số có liên
quan đến chủ đề)
Vấn nạn 1: Sự
đầu thai là một điều đáng tin.
Người Kitô giáo chống đối lại sự đầu thai v́ tám lư do. (xem chi
tiết theo đường dẫn)
Vấn nạn 3: Thiên
đàng rơ ràng là một ư tưởng đáng ước ao. Nếu không có thiên
đàng, th́ chúng ta phải tạo ra nó. Nó là một “giấc mơ tất yếu.”
Vấn nạn 4: Chính
cái khuôn mẫu hay cấu trúc về ư niệm thiên đàng chỉ là huyền
thoại hay truyền thuyết. Những con đường bằng vàng là phiên bản
khác của “vùng đất săn bắn hạnh phúc” hay cánh đồng nơi các vị
thần ở.
Vấn nạn 5: Việc
tin vào thiên đàng là phi thực tế..
Vấn nạn 6: Thiên
đàng là một sự đánh lạc hướng. Dù đúng hay sai th́ thiên đàng
làm chúng ta sao nhăng khỏi những nhiệm vụ hiện thời của chúng
ta.
Vấn nạn 7: Thiên
đàng là một sự mua chuộc. Thiên đàng làm cho tôn giáo
trở nên ích kỷ. Bạn ra sức vì phần thưởng thiên đàng,
không vì tình yêu nguyên tuyền mà là v́ hám lợi.
Vấn nạn 8: Thiên
Đàng th́ quá ích kỷ. Thật kêu ngạo làm sao nếu nghĩ rằng bạn
được tiền định mệnh để kết hôn với Chúa một cách thiêng liêng!
Vấn nạn 9: Thiên
Đàng sẽ là chán chường. Không có ǵ để làm ngoại trừ việc thờ
phượng – một nghi thức phụng vụ vô tận.
Vấn nạn 10: Chúng
ta hạnh phúc như thế nào trên thiên đàng nếu như người thân yêu
của chúng ta lại ở hỏa ngục? Nếu chúng ta ngừng yêu họ, chúng ta
sẽ không tốt; nếu chúng ta giữ t́nh yêu đối với họ, chúng ta sẽ
không hạnh phúc.
Vấn nạn 11: Thiên
Đàng là vĩnh hằng. Nhưng dường như sự vĩnh hằng th́ không thuộc
con người v́ không có thời gian th́ cũng chẳng có sự thăng tiến,
không thay đổi, chẳng có công tŕnh ǵ. Sự thờ phượng cách thụ
động và chẳng một chút thay đôi ǵ có vẻ chỉ hợp với các thiên
thần chứ không phải cho chúng ta.
Vấn nạn 12: Trong
thiên đàng, chúng ta có tự do để phạm tội hay không? Nếu không,
chúng ta là những người máy không có tự do, những con người
không có ư chí tự do. Nếu có, th́ thiên đàng cũng nguy hiểm như
trái đất vậy. Và nếu có ai ở đó chọn lựa để phạm tội th́ vườn Ê
đen và sự sa ngă lại tái diễn thêm lần nữa.
…
…
Vấn nạn 15: Liệu
trên thiên đàng có t́nh dục hay không? Nếu không, hầu hết con
người hôm nay không muốn vào nơi ấy. Nếu có t́nh dục, th́ thiên
đàng chẳng khác nào trái đất, nó mang tính trần tục quá.
Vấn nạn 16: Yêu
mến thiên đàng là trở thành kẻ phản bội đối với trái đất, là bỏ
nó lại đàng sau như một con chuột chạy trốn khỏi một con tàu
đang ch́m. Điều đó thật bất trung.
Vấn nạn 17: Thiên
đàng nghe có vẻ xa lạ, xa xôi, là một nơi khác, đầy sự đe dọa,
“không thích hợp cho con người cư ngụ.” Giống như thử một bộ
quần áo không phù hợp và nói: “Cái này không dành cho tôi”.
Hỏa ngục:
(Người viết xin trích một số đoạn tiêu biểu có liên quan đến chủ
đề) (*)
1. Tin rằng chẳng có giả định hỏa ngục nào cả mà Kinh Thánh và
Giáo Hội đều nói dối, v́ rơ ràng cả hai đều dạy về thực tại hỏa
ngục.
2. Nếu Kinh Thánh và Giáo Hội không nói dối về những ǵ mà Chúa
Giêsu đă nói về hỏa ngục, th́ giả định rằng Chúa Giêsu là kẻ
nói dối. V́ Ngài khẳng quyết về hỏa ngục hơn bất cứ ai khác
trong Kinh Thánh.
---
Nếu không có hỏa ngục, Chúa Kitô không chỉ là một thầy dạy bịp
bợm nhưng c̣n là một kẻ khốn nạn, v́ Ngài dọa nạt chúng ta một
cách không cần thiết, sai lạc và đầy nguy hiểm.
…
6. Nếu không có hỏa ngục để được cứu khỏi đó, th́ Chúa Giêsu
không phải là Đấng Cứu Độ của chúng ta mà chỉ là một vị thầy,
một ngôn sứ, một vị guru hay mẫu mực của chúng ta mà thôi.
7. Nếu không có hỏa ngục, một sự dửng dưng tôn giáo sẽ đi kèm
theo đó. Nếu đức tin vào Chúa Kitô như là một Đấng Cứu Độ là
không cần thiết, thì chúng ta cũng nên nhớ đến tất cả những nhà
truyền giáo và tạ lỗi với tất cả những vị tử đạo. Nếu không
có một thứ như lửa bộ phận cứu hỏa sẽ là một điều vô ích và
lăng phí.
Nguồn Nguyên tác: Pocket Handbook of Christian Apologetics
Tác giả: Peter Kreeft, Ronald K. Tacelli
(theo
dongten.net)
Luyện ngục và hỏa ngục là ǵ và ở đâu?
Hỏi: nhân tháng cầu cho các linh hồn ( tháng 11) xin cha giải
thích rơ về hai nơi gọi là Luyện ngục và hỏa ngục
Trả lời:
Trong niềm tin Kitô Giáo, căn cứ vào Kinh Thánh và Giáo lư của
Giáo Hội th́ chắc chắn phải có ba nơi gọi là Thiên Đàng, Luyện
ngục và hỏa ngục ( hell) mà những người chết đi trong thân xác
sẽ phải bị phán xét để đến một trong ba nơi này.
Thật vây. trước hết là Luyên ngục hay Luyện tội ( purgatory) là
nơi mà các linh hồn thánh ( holy souls) đă ĺa đời trong ơn
nghĩa Chúa nhưng chưa được hoàn hảo đủ để vào ngay Thiên
đàng. Các linh hồn này phải “tạm trú” trong nơi gọi là Luyện tội
này để được thanh tẩy một thời gian dài ngắn tùy theo mức
hoàn hảo đ̣i hỏi trước khi được vào Thiên Đàng vui hưởng Thánh
Nhan Chúa cùng các Thánh các Thiên Thần.
…
Khác với luyện ngục và hỏa ngục, Thiên Đàng là nơi dành
cho những ai , khi c̣n sống trên trần gian này, đă quyết tâm đi
t́m Chúa và sống theo đường lối của Người, để xa lánh mọi sự dữ,
sự tội và bước đi theo Chúa Kitô, là : “Con đường là Sự thật và
sự Sống” ( Ga 14: 6).
Ngược lại, hỏa ngục là nơi dành cho những kẻ -khi
c̣n sống- đă hoàn toàn khước từ Thiên Chúa và t́nh thương của
Người để sống theo ư muốn riêng ḿnh , và buông theo
những quyến rũ của ma quỉ và thế gian để làm những sự dữ như :
giết người, giết thai nhi, thù hận, cướp của , cờ bạc, bất công,
bóc lột, hiếp dâm, ngoại t́nh, khủng bố, gây ra chiến
tranh, giết hại dân lành, trẻ em.. buôn bán phụ nữ và trẻ nữ để
bán cho bọn bất lương hành nghề măi dâm và ấu dâm rất khốn nạn
và tội lỗi, như thực trạng của thế giới vô luân , vô đạo ngày
nay…
Sau đây là bằng chứng có nơi gọi là hỏa ngục :
I- Thánh Kinh đă cho ta biết về nơi gọi là hỏa ngục như sau :
“ Khi ra về, mọi người sẽ thấy xác những kẻ phản loạn chống lại
Ta,bị gịi bọ rúc tỉa, chúng sẽ không chết, lửa thiêu đốt
chúng sẽ không tàn lụi. Chúng sẽ là đồ ghê tởm cho mọi người
phàm.” ( Ís 60:24)
“ Nếu mắt ngươi làm cớ cho ngươi sa ngă, th́ móc nó đi; thà chột
một mắt mà được vào Nước Thiên Chúa c̣n hơn là có đủ hai
mắt mà bị ném vào hỏa ngục, nơi gịi bọ không hề
chết, lửa không hề tắt.” ( Mc 9: 47-48)
II- Giáo lư của Giáo Hội về Hỏa ngục
Giáo lư của Giáo Hội nói rơ hỏa ngục là “ nơi này dành cho
những ai- cho đến lúc chết- vẫn từ chối tin và trở lại. Đó
là nơi cả hồn lẫn xác sẽ bị hư mất . Và danh từ “ hỏa ngục “
được dùng để chỉ t́nh trạng ly khai chung cuộc khỏi mọi hiệp
thông với Thiên Chúa và các Thánh ở trên Trời”, ( x. SGLGHCG số
633, 1033). [theo
conggiao.info]
Nếu bạn đă từng nghĩ như tôi hoặc vẫn c̣n đang nghĩ Thiên
Đàng—Luyện Ngục và Hỏa Ngục là những nơi chốn th́ sai rồi! Bạn
cứ mở cuốn Toát Yếu Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo do Đức Giáo
Hoàng Benedictô đương kim soạn thảo ra mà xem th́ sẽ thấy quan
niệm về NƠI CHỐN của Thiên Đàng—Luyện Ngục và Hỏa Ngục như là
những NƠI CHỐN là sai bét tè le!
-
Thiên đàng là t́nh trạng hạnh
phúc tối thượng và vĩnh viễn. Ai chết trong ân sủng của
Thiên Chúa và ai không cần bất cứ sự thanh luyện cuối cùng
nào, sẽ được qui tụ quanh Chúa Giêsu và Đức Maria, các thiên
thần và các thánh … được chiêm ngắm Thiên Chúa “mặt giáp
mặt” ( 1 Cr 13,12) … sống trong sự hiệp thông t́nh yêu
với Chúa Ba Ngôi và chuyển cầu cho chúng ta (Toát Yếu Giáo
Lư của Giáo Hội Công Giáo # 209).
-
Luyện ngục là t́nh trạng của
những người chết trong t́nh thân với Thiên Chúa, nhưng, dù
đă được đảm bảo ơn cứu độ vĩnh cửu, họ c̣n cần thanh luyện
trước khi được hưởng hạnh phúc thiên đàng (Toát Yếu Giáo Lư
của Giáo Hội Công Giáo # 210).
-
Hoả ngục là [t́nh trạng] xa
cách đời đời khỏi Thiên Chúa.… Đức Kitô diễn tả thực tại hoả
ngục bằng những lời này: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi
cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời” (Mt 25:41) (Toát
Yếu Giáo Lư của Giáo Hội Công Giáo # 212).
Hy vọng bạn sẽ không bao giờ nghĩ rằng Thiên Đàng—Luyện Ngục và
Hỏa Ngục như là những NƠI CHỐN nữa!
(theo
mygod.vn)
B/- Thiên đàng và Địa Ngục theo Phật Giáo
Phật giáo có tin thiên đường và địa ngục hay không?
Có tin. Phật giáo không hoài nghi có tồn tại thiên đường và địa
ngục, bởi v́ thiên đường, địa ngục đều cùng nằm trong phạm
vi luân hồi, sinh tử. Phật giáo cho rằng, con người khi
chưa thoát khỏi giới hạn của sinh tử luân hồi th́ vẫn có khả
năng thực nghiệm thiên đường và địa ngục, thậm chí có thể
nói, mọi người đều đă từng sống qua ở thiên đường và địa ngục.
Sống theo 5 giới và 10 thiện ở cấp cao th́ sẽ sinh ở thiên
đường. Phạm các tội lớn như 10 ác, 5 nghịch th́ đọa địa ngục.
Chịu khổ báo hết rồi, chúng sinh ở địa ngục vẫn có thể sinh
lên thiên đường. Ở thiên đường, hưởng phúc báo hết rồi, chúng
sinh ở thiên đường lại có thể xuống địa ngục. V́ vậy, Phật
giáo cho rằng thiên đường tuy là cảnh giới sung sướng, nhưng
không phải là nơi an lạc cứu kính, địa ngục tuy là cảnh
giới khổ, nhưng cũng có ngày thoát khổ.
Đồng thời, tu thiện nghiệp có cao thấp khác nhau, cho nên thiên
đường cũng có thứ bậc. Do ác nghiệp cũng có nặng nhẹ khác nhau,
cho nên địa ngục cũng có đẳng cấp.
Thiên đường của Phật giáo chia làm 28 cơi Trời, thuộc 3 giới. Có
sáu cơi Trời Dục giới, gần gũi với cơi người. Cao hơn nữa, có
18 cơi Trời thuộc Sắc giới. Và ở trên Sắc giới, có 4 cơi
Trời thuộc Vô sắc giới. Trên sự thực, làm người mà tu
thiện nghiệp chỉ có thể sinh ở 6 cơi trời và Dục giới. Trong
các cơi Trời thuộc Sắc giới, trừ cơi trời Tịnh cư thiên ở Sắc
giới, c̣n th́ tất cả các cơi trời khác đều là những cảnh
giới thiền định, do tu thiền mà đạt được.
Địa ngục: nên hiểu như thế nào?
Địa ngục trong Phật giáo, lớn nhỏ có rất nhiều, không kể xiết,
do khổ báo của chúng sinh ở địa ngục có khác biệt, chủ yếu phân
thành 3 loại địa ngục lớn: Căn bản địa ngục, cận biên địa
ngục và cô độc địa ngục. Loại địa ngục thường được nói tới trong
kinh Phật là căn bản địa ngục. Căn bản địa ngục lại chia
thành tám địa ngục đại nhiệt (nóng dữ) và tám địa ngục đại
hàn (lạnh giá). Chúng sinh, tùy theo tội ác đă phạm mà đọa vào
các cấp địa ngục khác nhau. Người thế gian nói rằng, người làm
ác bị quỷ sứ ở địa ngục bắt trói nhưng thực ra, lên thiên
đường hay xuống địa ngục, đều do nghiệp lực thúc đẩy, dắt
dẫn. Nghiệp lực hướng lên các cơi trời th́ được sinh lên các cơi
trời để hưởng phúc. Nghiệp lực hướng xuống địa ngục, th́ đọa
xuống các địa ngục để chịu khổ.
(theo
Ḥa thượng Thích Thánh Nghiêm)
C/- Thiên Đàng và Địa Ngục theo Đạo Cao Đài:
Khái niệm tương tự như Thiên đàng và địa Ngục của các tôn giáo
gọi, đạo Cao đài khẳng định có.
Đạo Cao Đài không gọi các nơi ấy Thiên Đàng và Địa Ngục. Cao Đài
gọi nơi ấy bằng những danh từ khác :
cơi Thiêng Liêng.
Cơi Thiêng Liêng là một nơi vô h́nh ngoài giác quan của con
người nhận thức. Cơi Thiêng Liêng được cấu tạo thành bằng những
chất liệu khác hơn cơi phàm. Nó không được tạo nên bằng vật liệu
như đất nước gió lửa như cơi phàm. Xin nói rơ một vật ngoài sự
nhận thức bằng giác quan của con người không có nghĩa là vật ấy
không có. Ví dụ cụ thể: Lư trí, ư thức của con người ai nhận
thấy bằng ngũ giác quan? Nhưng không ai phủ nhận các thứ ấy
không có.
Minh chứng cụ thể các trường hợp thử Cơ Bút:
a/ Cụ Yết Ma Luật chủ chùa Hội Phước Tự ở làng Phước Hậu, tổng
Phước Điền, thuộc quận Cần Giuộc, là một tu sĩ được nhiều người
kính trọng, nghe có cơ bút Tiên Phật giáng, nhưng cụ không tin,
liền lên Sài G̣n, đến tận nơi cầu cơ nhà ông Cao Quỳnh Cư đặng
thử. Cụ viết một bài thơ để trong túi áo, cụ vái: Nếu Thượng Đế
giáng cơ thật linh hiển, xin họa bài thơ trong túi tôi.
Đấng Cao Đài Thượng Đế họa:
Hăy tỉnh cho mau giấc mộng tràng,
Đời cùn Tiên Phật giáng
trần gian.
Chẳng ai hay giỏi bày thi phú,
Chính thật Ta
đây Đấng Ngọc Hoàng.
Cao Đài Thượng Đế
Nhận xong bài họa, cụ Yết Ma Luật đă trọn tin và cho xem bài thơ
của Cụ xướng:
Ấm ức tâm tư suốt mộng tràng,
Có đâu Tiên Phật giáng trần
gian?
Văn hay chữ giỏi bày thi phú,
Họa đặng thơ đây mới
Ngọc Hoàng.
Yết Ma Luật
Cụ Yết Ma Luật tin tưởng Đức Chí Tôn nên nhập môn vào Đạo Cao
Đài.
b/ Ông Phan Khắc Sửu thử cơ bút.
Tuy đă có nhiều người thử thách, nhưng ông Phan Khắc Sửu vẫn
không tin. Ông đến dự đàn cơ, âm thầm viết một bài thơ 5 vần mà
2 vần trên khác 3 vần dưới, không nói một lời, đến đốt trước đàn
cơ, xin họa y 5 vần.
Đấng Cao Đài đang dạy Đạo cho chư môn đệ, bỗng cơ ngưng đề tài
đang giảng dạy, họa lại bài thơ y theo 5 vần của ông Phan Khắc
Sửu, khiến mọi người ngạc nhiên:
Cơ Trời khó tỏ hỡi con ơi!
Nghiệp quả tiền khiên của giống
ṇi.
Bởi luyến mồi thơm, cam cá chậu,
V́ ganh tiếng gáy,
chịu chim lồng.
Trời khai Đại Đạo nên yên dạ,
Đất dậy
phong ba cứ vững ḷng.
Gắng trả cho rồi căn nợ ấy,
Tu mà
cứu thế dễ như không.
Cao Đài Thượng Đế
Ông Phan Khắc Sửu nhận được bài họa, liền xin làm môn đệ Đấng
Cao Đài Thượng Đế v́ bài thơ của ông xướng có tám câu mà 2 vần
trên khác 3 vần dưới, chép ra như sau:
Cao Đài Tiên Trưởng hỡi ông ơi!
Linh hiển sao không cứu giống
ṇi.
Trăm họ điêu linh thân cá chậu,
Muôn dân đồ thán phận
chim lồng.
Coi ṃi diệt chủng càng đau dạ,
Thấy cảnh vong
bang bắt năo ḷng.
Nạn nước ách dân như thế ấy,
Ngồi mà tu
niệm có yên không?
(Trích tài liệu của Ban
Đạo Sử quay ronéo, trang 88)
Cơi thiêng liêng được chia ra làm hai h́nh thức: Cơi Thiêng
Liêng Hằng Sống và Cơi Thiêng Liêng (không hằng sống).
Cơi Thiêng Liêng Hằng Sống là cơi đă thoát khỏi ṿng sanh tử.
Không c̣n luân hồi nữa.
Cơi thiêng liêng c̣n lại được chia làm nhiều thứ bậc. Thấp nhất
là Âm Quang cao nhất là Cơi Thánh. Xin trích dẫn các Kinh
Điển Cao Đài như sau:
1/- Trong sách Thiên Đạo của
Bảo Pháp Chơn Quân nói:
CUỘC SÁNG TẠO
Đấng Tạo Hóa, ngự trong Ngôi Tứ Tượng, dùng quyền Chí Tôn lập
phép Vô Vi Bát Quái mà tác thành Vơ Trụ (Cosmos).
Trước hết, Ngài lập ba cơi Thanh Thiên:
1. Thái Thanh Thiên (Adi), Phật giáo gọi Đại Bát Niết Bàn
(Mahaparanirvana).
2.
Thượng Thanh Thiên (Anupadaka), Phật giáo gọi Bát Niết Bàn
(Paranirvana).
3. Ngọc
Thanh Thiên (Atma), Phật Giáo gọi Niết Bàn (Nirvana), tức là
Bạch Ngọc Kinh (1).
Lập xong ba cơi Thanh Thiên, đấng Tạo Hóa lập thêm ba Cảnh giới
là: Thượng giới, Trung giới, Hạ giới.
Thượng giới gồm ba cơi Tiên là:
1. Cơi Thiên Tiên, cũng gọi là cơi Bồ đề (Monde Spirituel ou
Monde Bouddhique).
2.
Cơi Địa Tiên (Monde Mental supérieur - Manas supérieur).
3. Cơi Nhơn Tiên (Monde Mental - Manas).
Mỗi cơi chia làm ba từng, cộng chung là chín từng, gọi là Cửu
Trùng Thiên. (2) Trung
giới gồm có cơi Thánh (Monde Mental inférieur) và cơi Thần
(Monde Astral).
Mỗi cơi cũng chia ra nhiều từng, đây chỉ nói đại lược thôi.
Hạ giới là cơi Phàm trần, có tinh tú và thất thập nhị địa cầu,
đều có nhơn loại cùng các thứ sanh vật, mà địa cầu chúng ta ở
đây lại đứng vào hạng 68.
Từng cao nhứt cơi Phàm trần chứa đầy một chất tinh khí nhẹ nhàng
hơn không khí, người có thần nhăn thấy màu nó vàng vàng. Người
Pháp gọi tinh khí là éther, người Trung Hoa dịch âm là dĩ thái.
Tóm lại, trong vơ trụ, kể từ trên đổ xuống gồm có: Thái Thanh
Thiên, Thượng Thanh Thiên, Ngọc Thanh Thiên, Tiên Giới, Thánh
Giới, Thần Giới và Phàm Giới. Tam Thanh Thiên và Cửu Trùng Thiên
gọi chung là: "Thập nhị Thiên".
Trong khi sáng tạo, đấng Tạo Hóa dùng Chơn linh biến ra mười hai
đấng gọi "Thập nhị Thời Thần" (Jayas), mỗi vị lo phận sự trong
một phần mười hai của thời gian sáng tạo chia làm: tư, sửu, dần,
măo, th́n, vân vân.
Chơn linh ấy có ba Ngôi, th́ hồn cũng có ba bực:
1. Linh Hồn (Âme divine - Atma) cũng gọi Phật hồn, Chơn hồn,
Chơn ngă, Chơn tâm, Ngươn thần.
2. Anh hồn (Âme spirituelle - Boddhi) cũng gọi Tiên hồn, Bồ đề,
Bát nhă, Trí huệ.
3. Nhơn hồn (Âme humaine - Coprs mental supérieur) cũng gọi Giác
hồn, Thần thức, A lại Da thức, Thượng trí Thức, Tâm Thức, Nghiệp
thức.
Nhơn hồn đồng nguyên chất với cơi Tiên. Anh hồn đồng nguyên chất
với cơi Thiên Tiên, cũng gọi cơi Bồ đề (Monde spirituel ou
Boddhique). Linh hồn đồng nguyên chất với cơi Ngọc Tiên Thiên,
cũng gọi là cơi Niết bàn (Nirvana).
Thể th́ có bốn thứ là: Vật thể, Khí thể, Thần thể, Thánh thể.
Vật thể (Corps physique: Rupa) là xác thịt, thể thứ nhứt của con
người. Nó do bốn nguyên tố lớn hiệp thành (Tứ đại giả hiệp). Bốn
cái nguyên tố ấy là: đất, nước, lửa, gió (1)
Vật thể bị bao bọc bởi một lớp tinh khí (éther), gọi là Khí thể
(Double éthérique: linga-sharira), cũng gọi là cái Phách, kêu
nôm là cái Vía, thuật âm phù gọi Tướng tinh.
Khí thể dùng rút sanh lực vào Vật thể đặng giữ cho Vật thể được
sanh tồn. Nhờ có Khí thể chở che bao học, Vật thể mới không tan
ră.
Khí thể dính với Vật thể bởi một sợi từ khí (lien magnétique).
Khi nào Khí thể bứt sợi dây ấy mà ĺa khỏi Vật thể, th́ con
người phải chết. Lúc bấy giờ, Vật thể mất sự che chở của Khí
thể, nên lần lần tiêu ră.
Nhà âm phù thuật sĩ dùng phép thôi miên có thể làm cho Khí thể
của người sống xuất khỏi Vật thể trong một lúc (nhưng không cho
dang ra xa, sợ đứt sợi từ khí mà nguy cho tánh mạng).
H́nh nó xuất ra mờ mờ như đám sương mù, người có thần (voyant),
trông thấy được.
Lúc bấy giờ, xác phàm hết cử động, hết biết cảm giác, trơ trơ
như một tử thi.
Người hít thuốc mê không c̣n biết đau đớn là v́ thuốc mê đă làm
cho một Khí thể ra khỏi xác thịt.
Thể thứ ba là Thần thể hay Chơn thần (Corpsastal: Kama). Dính
với Khí thể bởi một sợi từ khí, Chơn thần làm trung gian cho Vật
thể và Hồn.
Chơn thần là tạng chứa dục vọng và t́nh cảm tức là nguồn gốc sự
cảm giác. Hể nó vọng động, th́ mắt tham sắc, tai tham thanh, mũi
tham hương, lưỡi tham vị và thân tham xúc. Nó là vai chủ động
của lục căn.
Tâm lư học gọi là ư thức.
Người ta có thể luyện phép xuất Thần ra khỏi xác mà vân du trên
cơi Thần (Trung giới) là cơi thích hạp với Chơn thần v́ đồng một
nguyên chất.
Chơn thần của các vị tu đắc đạo vốn huyền diệu vô cùng tuy c̣n ở
xác phàm mà tự do xuất nhập, trong nháy mắt dạo khắp ba ngàn thế
giới, tiếp xúc với Thần tiên.
Người đồng tử (médium) nhờ xuất được Chơn thần ra khỏi Phách mà
thông công với các đấng Thiêng liêng.
Thể thứ tư là Thánh thể (Corps mental inférieur: manas
inférieur). Phật giáo gọi Matna thức hay Truyền thống thức; Tâm
lư học gọi Trí thức.
Nó giao thông giữa Thần và Hồn. Hễ Chơn thần phân biệt cái ǵ là
tốt, cái ǵ là xấu, hoặc điều ǵ là thiện, hoặc điều ǵ là ác nó
cũng tùy theo mà phân biệt như vậy, rồi truyền sang cho Nhơn hồn
hay biết.
Tóm lại, con người có bốn thể là: Vật thể, Khí thể, Thần thể,
Thánh thể.
Và ba hồn là: Nhơn hồn, Anh hồn và Linh hồn.
Khi con người chết, bốn thể lần lần tiêu tan, duy có hồn là bất
tiêu bất diệt, đi đầu thai kiếp nầy sang kiếp khác, cho tới khi
được hoàn toàn giải thoát (đắc đạo).
NHƠN HỒN SAU KHI GIẢI THỂ
Người ta chết là khi sợi từ khí cột dính Vật thể và Khí thể bị
bứt đi ( (1),
thế là Khí phách và Thần hồn ĺa xác thịt.
Thiệt ra, cái chết chỉ là sự ly dị giữa Vật thể và Khí thể. Khí
thể vốn là tạng chứa sanh lực, mà nếu nó ĺa khỏi Vật thể th́
Vật thể hết sanh lực, phải lần lần tan ră.
Vài ngày sau khi con người chết, Khí thể của người ấy ĺa khỏi
Chơn thần. Nó không cử động mà cứ vơ vẩn gần tử thi. Ban đêm, đi
đến nơi thanh vắng, nhứt là nơi mồ mả, những người tánh nhát hay
sợ sệt; sự sợ sệt ấy khích thích thần kinh hệä (système nerveux)
làm cho họ thấy được h́nh dạng Khí thể vẩn vơ nơi đó. Họ cho là
"gặp ma" (fantôme éthèrique).
Khí thể của người chết tiêu tan một lượt với tử thi. Tần nhơn
(Người Cao miên) có tục hỏa táng (Crémation), nghĩa là thiêu tử
thi, rồi chôn tro, hoặc đựng trong hủ đem thờ nơi chùa. Dùng hỏa
táng, th́ Khí thể tiêu liền theo xác thiêu.
Khi Hồn người chết cổi hết Vật thể và Khí thể, nó được nhẹ nhàng
thong thả như trút được một gánh nặng. Lúc bấy giờ, nó lại linh
hoạt hơn khi c̣n tù túng trong xác phàm. Nó vẫn sống như thường
ở cơi vô h́nh; cái sống nầy mới là sống thiệt, có điều Nhơn hồn
không cảm xúc theo phàm trần v́ nó không c̣n Vật thể.
Lúc nầy Nhơn hồn linh hoạt nhờ Chơn thần là cái vỏ bao bọc nó
như Khí thể bao bọc xác thịt vậy. Chơn thần vốn đồng nguyên chất
với Trung giới là cơi Thần (Monde astral). Cho nên, sau khi rời
bỏ xác phàm và cái phách (Vật thể và Khí thể), Hồn nhờ Chơn Thần
làm chiếc xe đưa vào cơi Thần là nguyên quán, là quê hương của
Chơn thần vậy.
Vẫn biết Chơn thần là tạng chứa những hột giống thuộc về dục
vọng và t́nh cảm. Con người, nếu lúc sanh tiền đă chú trọng vật
chất, chỉ lo thỏa măn dục vọng, tất nhiên Chơn thần bị trọng
trược bởi những hột giống xấu xa ấy, nên nó lâu tan ră. Chơn
thần ấy chẳng khác nào cái khám có bốn vách kiên cố để nhốt Hồn
người trong một thời gian rất lâu ở Trung giới.
Vậy nên chú trọng điều nầy: ở cơi phàm, con người hành động thể
nào, sự hành động ấy, dầu lành dầu dữ, dầu thấp hèn hay cao
thượng, cái ấn tượng của các hành vi ấy đều in gắn vào tinh chất
(matière astrale) của cơi Thần. Đến khi Hồn trở về cơi Thần, th́
cái ấn tượng ấy hiện ra có thứ lớp rơ ràng; Hồn người trông thấy
chẳng khác nào mục kích một phim chớp bóng (Đó
là "Nghiệt cảnh đài" (Psyché astrale) của nhà Phật.)
Lúc bấy giờ, Hồn người được sung sướng mà nhận thấy hành vi nhơn
thiện và cao thượng của ḿnh khi c̣n ở thế, hoặc ăn năn và đau
khổ mà xem lại những điều độc ác thấp hèn của ḿnh đă tạo. Sự
sung sướng và sự đau khổ ấy, tức là phần thưởng phạt thiêng
liêng cho hồn người tại Trung giới, tức là miền Âm cảnh mà người
ta quen gọi là Địa ngục (Enfer), tiếng Phạn là Kama Loca.
Hồn những người tu mà giữ tṛn nhơn đạo và chuyên việc nhơn đức
và hồn của chiến sĩ đă liều ḿnh v́ nước, khi về đến cơi Thần
đều được hưởng các điều khoái lạc thiêng liêng là phần thưởng
cho sự hành vi của ḿnh khi c̣n ở thế. Đó là đắc Thần vị (thành
Thần).
Ở cơi Thần, những Hồn đồng một tŕnh độ tấn hóa với nhau đều
liên hiệp từng đoàn thể để giúp đỡ nhau đặng tấn hóa thêm lên.
Hưởng và chịu thưởng phạt thiêng liêng ở cơi Thần trong một thời
gian lâu hay mau tùy theo căn nghiệp của ḿnh. Nhơn hồn giải
thoát được Chơn thần v́ chơn thần đến ngày tiêu tán. Chơn thần
tiêu tán, th́ bao nhiêu hột giống của nó tàng trử bấy lâu, tức
là những hột giống luân hồi (atomes permanents) đều rút vào cái
thể thứ tư là Thánh thể, để làm nghiệp duyên cho kiếp tái sanh.
Chỉ c̣n cái Thánh thể bao bọc, Nhơn hồn bỏ cơi Thần mà vào từng
cao nhứt của Trung giới, tức vào cơi Thánh (Monde mental
inférieur). Nhơn hồn ở cơi nầy lâu hay mau cũng tùy theo kiếp
sống của ḿnh tại thế. Như lúc sanh tiền con người đă hành động
cao thượng về tinh thần trí thức, nếu con người đă có những tư
tưởng thanh cao và những t́nh cảm cao siêu của phàøm tánh, nếu
con người đă biết quên ḿnh để phụng sự một lư tưởng cao cả,
hoặc một chủ nghĩa vị tha, th́ Nhơn hồn được hưởng bền lâu những
khoái lạc, những hạnh phước thiêng liêng nơi cơi Thánh tốt tươi
vui vẻ, và được tiếp xúc với các v́ minh Thánh nơi đây. Đó là
đắc Thánh vị (thành Thánh).
Nên biết rằng ở cơi Thánh, chẳng một việc ǵ là phát đoan (khởi
đầu). Những công việc ở đây toàn là tiếp tục. Nói một cách dễ
hiểu là: một hạnh phước không thể bắt đầu tạo ra ở cơi nầy. Nó
phải phát đoan từ cơi Phàm, rồi đến đây mới tiếp tục mà phát
triển thêm.
Cho nên con người khi c̣n ở thế, cần phải sống một cuộc đời nhơn
thiện và thanh cao về tinh thần trí thức và lư tưởng, chớ không
phải đợi lên đến cơi thiêng liêng mới lo hành thiện, th́ muộn
lắm rồi. Luật nhơn quả (Loi de Karma) vốn chí công: nhơn nào,
quả nấy.
Khi c̣n ở thế, chúng ta tự tạo phẩm vị thiêng liêng của chúng ta
là cái kết quả của những hành vi thuận hay nghịch với Thiên đạo
(Loi divine).
Khi c̣n ở thế, chúng ta vẫn có quyền tự do định đoạt cho ḿnh.
Chớ nên quá hẫng hờ tự tạo lấy xiềng xích đặng sau rồi buộc trói
lấy ta.
Khi Thánh thể tiêu tan, những hột giống luân hồi tàng trữ bấy
lâu trong đó rút vào Nhơn hồn (Thần thức) để làm nghiệp nhơn cho
kiếp tái sanh như đă nói trước kia.
Nhơn hồn lúc bấy giờ hết bị thể phách ràng buộc, nó được thong
thả trở về bổn nguyên là Tiên cảnh (Monde mental supérieur), nơi
mà Thiên Chúa giáo gọi là Thiên đàng (Paradis), tiếng Phạn là
"Devakan".
Điều cần yếu nên biết là tất cả Nhơn hồn sau khi rời bỏ bốn thể,
đều trở về cơi Tiên trong một thời gian lâu hay mau tùy theo
duyên nghiệp của ḿnh, nhưng đó chưa phải là đắc quả Tiên.
Đắc quả là những Nhơn hồn lúc ở thế biết tu hành theo chánh pháp
mà được sáng suốt. Cho nên khi về cơi Tiên, th́ có linh cảm hiểu
biết và hưởng được những điều khoái lạc thiêng liêng và những
thanh phước của Tiên cảnh (Điều
nầy sẽ giải trong bài luận "Chơn Ngă".) u nhàn xinh đẹp.
Nhơn hồn của những bực chơn tu đắc Tiên vị, khi ĺa cơi phàm,
th́ cổi luôn tất cả bốn thể một lượt; vượt khỏi cơi Thần và cơi
Thánh mà lên thẳng cơi Tiên. Nhưng sau khi hưởng hết quả vị, nói
một cách khác, sau khi măn hạn (2),
Nhơn hồn c̣n phải luân hồi lại nữa.
Đến như Nhơn hồn, khi c̣n ở thế không biết tu hành, th́ lúc trở
về Tiên cảnh, vẫn mờ mờ mịt mịt, không hiểu biết chi hết. Tại
cơi thiêng liêng nầy, những Nhơn hồn ấy ở vào trạng thái vô vi
vô giác (état inconscient).
Có lẽ độc giả lấy làm lạ, sao lại Trung giới, Nhơn hồn ở vào
trạng thái hữu giác (état conscient), mà khi đến Thượng giới nó
lại vô tri vô giác.
Điều đó cũng không khó hiểu. Lẽ thường, hai cái thái cực vốn
bằng nhau, nhứt là hai cái thái cực về quang độ (degré de
lumière). Nếu ánh sáng lu lờ, người ta chỉ thấy mờ mịt, như ở
vào cơi u minh. Nếu ánh sáng có cái quang độ trung b́nh, người
ta được thấy tỏ rơ, như ở vào cơi Thần, cơi Thánh.
Đến như quang độ lên đến cực điểm, th́ ánh sáng chói ḷa, người
ta bị chóa mắt như bị "nắng quáng đèn ḷa" mà không thấy chi
hết, hoặc không thấy chi đặng rơ.
Ấy vậy, Nhơn hồn mê muội không tu ở vào cơi Tiên là cơi sáng
ḷa, th́ chỉ mờ mờ mịt mịt trong trạng tháùi vô vi vô giác đó
thôi.
2/- Thánh Ngôn của Bác Nương Diêu Tŕ Cung nói về Âm Quang:
“Bát-Nương
Diêu-Tŕ-Cung
(Giải-thích về Âm-quang)
“Âm-quang là
khí-chất hỗn-độn sơ-khai, khi Chí-Tôn chưa tạo-hóa; lằn âm-khí
ấy là Diêu-Tŕ-Cung chứa để tinh-vi vạn-vật, tỷ như cái âm-quang
của phụ-nữ có trứng cho loài người. Khi Chí-Tôn đem dương-quang
ấm-áp mà làm cho hóa sanh, th́ cái khoảnh âm-quang phải
thối-trầm làm tinh-đẩu là cơ-quan sanh-hóa vạn-linh. Song lằn
âm-quang ấy có giới hạn, nghĩa là nơi nào ánh linh-quang của
Chí-Tôn chưa chiếu giám đến, th́ phải c̣n tối-tăm mịt-mờ, chẳng
sanh, chẳng hóa. Vậy th́ nơi khiếm ánh Thiêng-liêng là âm-quang,
nghĩa là âm-cảnh hay là địa-ngục, Diêm-đ́nh của Chư-Thánh lúc
xưa đặt hiệu. Vậy th́ chính lời nhiều Tôn-giáo, nơi ấy là những
chốn phạt tù những hồn vô căn vô kiếp, nhơn-quả buộc ràng,
luân-hồi chuyển thế, nên gọi là âm-quang, đặng sửa chữ phong-đô
địa-phủ mê-tín gieo-truyền, chớ kỳ thật là nơi để cho các
chơn-hồn giải thân định trí (một nơi trung-gian giữa thiên-đường
và địa-ngục hay là mờ-mờ mịt-mịt). Ấy là một cái quan-ải, các
chơn-hồn khi qui-thiên, phải đi ngang qua đó. Sự khó-khăn bước
khỏi qua đó là đệ-nhứt sợ của các chơn-hồn. Nhưng tâm tu c̣n lại
chút nào nơi xác thịt con người, cũng nhờ cái sợ ấy mà lo tu
niệm. Có nhiều hồn chưa qua khỏi đặng, phải chịu ít nữa, đôi
trăm năm, tùy chơn-thần thanh trược, Chí-Tôn buộc trường-trai
cũng v́ cái quan-ải ấy”.
Thất-Nương Diêu-Tŕ-Cung
“… Âm-Quang là nơi Thần-Linh-Học gọi là nơi
Trường-đ́nh của chư hồn giải thể hay nhập thể. Đại-Từ-Phụ đă
định nơi ấy cho Phật gọi là "Tịnh-Tâm-Xá" nghĩa là nơi của chư
hồn đến đó đặng tịnh tâm, xét ḿnh coi trong kiếp sanh bao nhiêu
phước-tội. Vậy th́ nơi ấy là nơi xét ḿnh. Chớ chi cả nhơn-sanh
biết xét ḿnh trước khi thoát xác, th́ tự nhiên tránh khỏi
Âm-Quang. Nói cho cùng nếu trọn kiếp, dầu gây lắm tội-t́nh, mà
phút chót biết ăn-năn tự-hối cầu-khẩn Chí-Tôn độ-rỗi, th́ cũng
lánh xa khỏi cửa Âm-Quang, lại c̣n hưởng đặng nhiều ân-huệ của
Chí-Tôn, là các chơn-hồn đặng tự-hối hay là đặng giáo-hóa mà
hiểu trọn chơn-truyền lập phương tự độ, hay là con cái của các
chơn-hồn cầu rỗi.
Ôi! Tuy vân, hồng-ân của Đại-Từ-Phụ như thế mà vẫn thấy
các chơn-hồn sa-đọa hằng-hà, mỗi ngày xem chẳng ngớt, là tại
thiếu kém đức tin và ḷng trông cậy nơi Thầy; đó là mấy đạo-hữu
tín-đồ “
Kết Luận:
Cũng như bài trước (bài số 1) người viết không bao giờ có ư định
phê phán đúng sai cách nh́n các tôn giáo về Thiên Đàng và Địa
Ngục.
Qua các trích dẫn kể trên cho chúng ta một cái nh́n khách quan
của các tôn giáo về Thiên đàng và Địa Ngục khác hơn với cách
nh́n của Cao Đài lạc quan và khẳng định hai nơi ấy là có thật.
Với cái nh́n ḥa nghi của Công Giáo và với cái nh́n cho Thiên
đàng và Địa ngục c̣n trong ṿng sinh tử của Phật giáo. Cao Đải
đă rạch ṛi đường đi nước bước của các chơn hồn về cơi
Cơi Thiêng Liêng
Hằng Sống (Con đường TLHS-Đúc Hộ Pháp)
Điều này chứng tỏ không phải Đạo Cao đài là một tôn giáo dung
hợp các tôn giáo trên thế giới.
Thánh địa, Trung tuần tháng Chạp Tân Sửu.
Điền Lạc