PHẠM TỘI VÀ PHẠM THỆ
Phân biệt Phạm-Luật Phạm-Pháp và Phạm-Thệ.
Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát
Kính thưa quý vị,
Hôm nay nhóm tín đồ già của chúng tôi lại ngồi cùng nhau tìm
hiểu Giáo Lý Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Đề tài hôm nay tìm về các ý
nghĩa sự khác biệt của
phạm luật phạm pháp và Phạm Thệ trong đạo Cao Đài như thế
nào?
Theo sự thăm dò tìm hiểu mới phát hiện sự hiểu biết thông thường
của đa số đồng đạo thì cho mọi thứ đó là giống nhau họ gọi chung
là làm sai hay làm đúng mà thôi.
Thực ra mọi thứ có một ý nghĩa khác nhau rất quan trọng.
Nói về đúng sai thì ta phân biệt hai nhóm : SAI LUẬT PHÁP
và SAI MINH THỆ.
Trong Đạo Luật Mậu Dần 1938, Chương Tòa Đạo qui định: sai luật
pháp thì dựa trên khung Thập-hình của Đức Lý Giáo Tông xét trị.
Trị đây là trị về phần hữu hình. Do cơ Quan Pháp Chánh Hiệp
Thiên Đài minh tra xét xử.
Trong Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông có quy định hai khung hình
phạt riêng cho Phạm Pháp
và Phạm Luật. Trong đó không có quy định nào cho việc
Phạm Minh Thệ.
Theo điều thứ mười lăm Đạo Luật Mậu Dần: Ðịnh án những người
phạm Luật Pháp
LUẬT:
Những vị nào phạm Luật Pháp, thì chiếu theo Thập Hình của Ðức Lý
Gìáo Tông mà định tội. Kẻ phạm phải chịu dưới 2 quyền luật:
1- Luật: là Tân Luật và Luật Hội Thánh.
2- Pháp: là Pháp Chánh Truyền và Ðạo Nghị Ðịnh.”
“I- PHẠM PHÁP:
Gồm có năm hình phạt cao nhứt là trục xuất ra khỏi Đạo và thấp
nhứt là ngưng quyền chức trong Đạo từ một đến năm năm (1-5 năm).
Mời xem chi tiết tại chương TÒA ĐẠO trong ĐẠO LUẬT MẬU DẦN.
II- PHẠM LUẬT
Thêm vào năm hình phạt dành cho việc phạm Pháp còn thêm năm hình
phạt nhẹ hơn nữa dành cho người phạm Luật
(từ hình thứ 5 đến hình
thứ 10)
Nặng nhứt cũng là trục xuất ra khỏi Đạo và nhẹ nhứt là tìm hầu
kẻ đức hạnh mà học Đạo (mời xem chi tiết tại chương TÒA ĐẠO
trong Đạo Luật Mậu Dần.)
***
Mức độ trừng phạt trong Thập Hình của Đức Lý nặng nhẹ khác nhau
dành riêng cho hành vi phạm pháp hay phạm luật. Cả hai hình phạt
dành cho phạm pháp và pháp luật đều nằm ở lĩnh vực hữu hình mà
thôi.
Tuy nói phạt về hữu hình, nhưng thể xác của người bị phạt không
hề bị tổn thương hay đau đớn. Chủ yếu là để thức tỉnh tinh thần
môn đệ trở lại con đường ngay nẻo chánh. Hình phạt cao nhất
trong Thập Hình là trục xuất ra khỏi cửa Đạo. Có nghĩa là không
được vào trường Đạo học đạo nữa. Đối với người không tín ngưỡng,
việc trục xuất ra khỏi cửa Đạo không làm cho họ đau khổ vì họ
không bị ràng buộc giáo luật giáo điều. Đó là phần Đạo, nhưng
phần đời họ vẫn phải tuân thủ theo luật pháp nhà nước. Ngày xưa
Hớn Lưu Khoan trị dân bằng đánh roi lát cho biết nhục mà sửa
chữa chứ không dùng hình phạt gây đau đớn thể xác. (Hớn Lưu
Khoan trách dân bồ-tiên thị nhục -TNHT). Ngày nay, nơi cửa Đại
Đạo, Đức Chí Tôn lấy Nho Tông chuyển thế. Luật Pháp Đạo lấy
đức-hạnh để cảm hóa
và giáo dục tín đồ. Hội Thánh tức Đức Lý và Đức Hộ Pháp không
trị chư môn đệ bằng hình phạt nhục hình, mà chỉ trị tín đồ bằng
cách răn đe cho người bị phạt tự ăn năn sám hối cải tà quy chánh
như trên lược qua Thập Hình đã rõ.
Bị trục xuất có nghĩa là không được vào cửa thiền môn để học
Đạo. Sự tấn hoá về mặt
tâm linh kẻ ấy không ai dắt dẫn.Ta có thể nghĩ nơi đó ánh sáng
của Đạo không soi thấu. Phải chăng đó là Bắc Cưu Lưu Châu chăng?
Nói rõ hơn nơi không có Đạo khai là nơi của Chúa Quỷ Kim Quang
Sứ trị vì vậy.
***
Tiếp theo đây tìm hiểu về hình phạt đối với việc
phạm lời Minh Thệ.
Người tín hữu Cao Đài mới nhập môn cầu Đạo đã Minh Thệ trước
Đấng Cha Trời giữ ba điều: một là
chỉ biết một Đạo Cao Đài
Ngọc Đế, hai là hiệp
đồng Chư Môn Đệ, ba là
gìn luật lệ Cao Đài. Và tự mình cam kết nếu có lòng hai tức
là thay lòng đổi dạ thì
Thiên tru và
Địa lục.
Tru
là giết người có tội
(Tru
(誅)
- Từ điển Hán Việt phổ thông) .
Lục là
giết và Phân thây (
戮
-
Từ điển Hán Việt phổ thông
.)
Giết đây không phải giết phần xác có sự sống của một con người
mà là giết sự tấn hóa của phần linh hồn. Đó là hình phạt vô cùng
nặng nề với của người có tín ngưỡng.
Chức việc và chức sắc có lời Minh thệ nặng hơn đó là “Tận
Đọa Tam Đồ Bất Năng Thoát Tục”. Tam Đồ là nấc thang tấn hóa
trong Bát hồn. Một đồ
xuất phát từ
kim-thạch-hồn lên đến
nhơn-hồn thay vì
được tấn hóa tiếp tục lên Thần hồn, Thánh Hồn, Tiên Hồn, Phật
Hồn để được giải thoát thì khi lên đến nhơn hồn phải quay lại
kim thạch hồn một lần nữa cho đến khi tấn hóa lên cho đến nhơn
hồn. Phải đi như vậy ba vòng.
Một vòng từ kim Thạch hồn đến Nhơn hồn phải mất một triệu năm
trăm ngàn năm (thuyết
Đạo của ĐHP). Ba vòng như vậy là phải ngót trên bốn triệu năm.
Thử hỏi con người chịu lặn hụp trong đau khổ như thế nào? Cái
khổ trong cuộc sống đời người dù 100 năm thôi cũng đã không chịu
nổi huống chi đến ngàn năm, một vạn năm, ức năm hay một triệu
năm? Lúc đó con người sẽ chịu sự đau khổ thê thảm đến mức nào?
Vì vậy mà hôm nay, chúng
tôi nhóm tín đồ già chúng tôi sưu tầm và phân tích những ý trên
đây để cống hiến cho chư Bằng Hữu có ý muốn tìm hiểu suy gẫm để
thấy sự khủng khiếp ấy mà răn mình tránh khỏi.
Trở lại án Tam Đồ là
do quyền thiêng liêng thi hành theo luật Công bình Thiên Đạo.
Còn án Thập Hình thì
do Hội-Thánh hữu hình định quyết và thi hành án. Khi bị phạt hữu
hình là chúng ta sẽ được miễn phần phạt vô vi. Phàm trị khỏi
Thiên trị.
Một vấn đề mà chúng ta còn phân vân đặt câu hỏi, tại sao Đức Chí
Tôn Từ Bi mà phải phạt chúng ta quá mức nặng nề khổ sở đến như
vậy? Theo TNHT ghi: Thầy không vì thương mà ẳm bồng đưa lên,
cũng không vì ghét mà hành phạt. Hình phạt mà ta chịu là do
Thiên thơ định vậy.Theo
Luật Tam Thể xác thân, chúng ta bị rơi vào con đường Tận Đọa
Tam Đồ là do chúng ta chọn đi vào chứ không phải các
Đấng Thiêng Liêng
gán ghép cho chúng ta.
Chúng ta có thể hoàn toàn ung dung thoát khỏi nơi đó
bằng cách giữ lời minh
thệ.
Khi phải quay vòng trong Tam Đồ Tận Đọa chơn linh của chúng ta
không thể tiếp cận được với chơn thần vì chơn thần ô trược, nên
chơn linh phải dật dờ chờ đợi thời gian kéo dài có thể đến 4
triệu năm.
Theo các Thánh Giáo về Tam Thể Xác Thân, con người có ba thể:
Xin trích một số đoạn để làm sáng tỏ thêm ý nghĩa quan trọng của
việc PHẠM THỆ.
“Đệ-Nhứt xác thân (xác phàm). Khi xác thân nầy bị luật thay đổi
của Tạo-Đoan thì nó không khi nào còn huờn hình lại được với
Đệ-Nhị xác thân và Đệ-Tam xác thân. …. mà nó phải lộn với đất để
nuôi những chất sanh như là thảo mộc, rồi từ thảo-mộc sẽ nuôi
đến thú cầm, rồi cũng từ thú cầm, nó lại nuôi cho loài người,
cũng như người ta bón phân đó. Nó vẫn ở lộn cùng đất mà thôi,
chớ không thể bay đi đâu được.”
“Chơn-Thần (đệ nhị xác thân) là một thể vô hình bất tiêu, bất
diệt, luôn luôn tiến-hóa hay ngưng trệ, do mỗi lần tái kiếp được
dày công hay đắc tội. Còn nương theo thú chất hình vật là
Đệ-Nhứt xác thân, là phải luân-hồi chuyển kiếp mãi mãi, chúng ta
thường nói là bị đọa đó.”
“Những Chơn-Linh ấy hoặc do phạm thệ, hay trốn thệ mà phải bị
như vậy. Đến lúc bị các điển nổ tan mà biến mất, theo Tam-Kỳ
Phổ-Độ gọi là bị Ngũ-Lôi tru diệt đó. Những Chơn-Linh đó nếu nhẹ
tội thì được nhẹ-nhàng hơn một chút, nên khi các điển phối hợp
thì bay lên cao một chút, đặng khỏi tan, nhưng cứ vơ-vẫn mãi ở
đó đặng nhìn lại cuộc thế chuyển xây, mà chúng ta gọi là tận đọa
tam đồ bất năng thoát tục.”
“Đệ-Tam xác thân (chơn linh) là nền tảng cho sự tiến-hóa của
nhơn-loại, thì lẽ dĩ nhiên nó phải chịu sự khảo-thí trong trường
thi của Đức Chí-Tôn lập nơi mặt thế nầy. Nếu một Chơn-Linh thắng
được cái thể thứ nhứt và chế ngự được những dục vọng của nó, thì
mới được thăng vị. Còn như thắng thể thứ nhứt không đặng thì
phải chịu hình phạt. Đó là luật công-bình của Đức Chí-Tôn, có
công thì thưởng, có tội thì trừng.”
“-Khi Đệ-Nhị xác thân bị ngũ-lôi tru-diệt thì Đệ-Tam xác thân
phải bị đọa mãi mãi cho đến khi có cuộc ân-xá của Đức Chí-Tôn
thì mới được tái kiếp lại mà lập công chuộc tội.”
“Lúc khai Thiên lập Địa thì các đẵng Chơn-Hồn ấy phải đi từ
vật-chất lên thảo-mộc, thú cầm, rồi mới chuyển kiếp làm người
được. Tính ra, mỗi phẩm đi từ đầu chí cuối mà không bị lầm lạc,
thì phải đủ chín chục ngàn kiếp ( 90.000 ) mới trở về
thiêng-liêng vị được. Vì cớ mà các đẵng Chơn-hồn lúc bị lầm lạc,
sa đọa, phải luân-hồi chuyển kiếp mãi mãi, chưa về đặng nơi cõi
Thiêng-Liêng Hằng Sống.”
“Ngày nay các nguyên-nhân xuống thế mà hiện còn ở tại thế , đã
chuyển kiếp mấy lần chín chục ngàn kiếp rồi. Bởi thế mà Chí-Tôn
xây cơ chuyển thế cho các nguyên-nhân thấy rõ sự huyền-vi bất
khả xâm phạm của Thiên-Điều , là dầu cho tay phàm kiếm đặng sự
bí-mật của Tạo-Hoá mà họ có thể kiếm đặng sự sanh của Đức
Chí-Tôn hằng dễ hay chăng?”
Nhìn cơ Đạo hiện nay nếu để tâm suy nghĩ ta sẽ nhận ra đâu là
hành động phạm pháp, phạm Luật và đâu
là phạm Lời Minh Thệ không cần phải tìm hiểu sâu xa.
Kết luận:
Theo văn thư số 24
ngày 21-8-Mậu Thìn (06-10-2012) của Ngài Cải Trạng Lê Minh
Khuyên có đoạn
“…việc
cầu phong, cầu thăng kỳ này, chức sắc Hiệp Thiên Đài chúng tôi
không có chức năng và nhiệm vụ gì với tổ chức ngoài giáo pháp
Chơn truyền của ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ Tòa Thánh Tây Ninh tức là
không tôn trọng luật pháp…”. Ngài Cải Trạng đặc
trách pháp luật của Đạo đã phán quyết một bản án “ngoài
giáo pháp” chung cho tất cả chức sắc, chức việc của Hội
Thánh hiện nay rồi đó.
Với mỗi cá nhân chúng ta phải liệu sao để mình khỏi bị
rơi vào khung hình phạt nặng nề của Luật Đạo. Nếu lầm lỡ thì ăn
năn chịu thiệt sám hối cải sửa để chịu phàm trị khỏi thiên trị.
Tuy hình phạt có nặng nề và khủng khiếp như vậy, nhưng các Đấng
thiêng liêng có minh bạch chỉ trước cho chúng ta biết, để tránh
và tránh một cách dễ dàng.
Đến đây nhóm tín đồ già
chúng tôi với trí lự hạn hẹp nên việc phân tích ý nghĩa và hình
phạt của hai việc
phạm-tội và Phạm-Thệ chưa đầy đủ lắm xin cống hiến đến toàn thể
quí đồng Đạo suy ngẫm mà chọn cho mình một cách đi ung dung tự
tại trong cửa Đại Đạo là gìn giữ LỜI MINH THỆ
để tránh khỏi THIÊN TRU ĐỊA LỤC hoặc TẬN ĐỌA TAM ĐỒ BẤT
NĂNG THOÁT TỤC.
Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Thánh địa, ngày 24 tháng 10 năm Mậu Tuất
Lược ghi
BÙI THANH AN