Ông lăo bán vé số
Về hưu đă hơn một năm nay nhưng tôi vẫn chưa quen thuộc được lối
sống nhàm chán của một người không có ǵ để làm. Cả ngày chỉ đi
lên, đi xuống t́m những việc vớ va, vớ vẩn để làm hay đi thăm
bạn bè, tán gẫu. Ngày nào cũng mua 2 hay 3 tờ báo đọc không c̣n
một chữ, ngay cả những trang quảng cáo cũng không bỏ sót.
Vợ chồng thằng con trai nhân dịp đi công tác Hà nội một tuần lễ
nên thu xếp kéo cả vợ con đi theo, nhân tiện thăm họ hàng bên
ngoại. Nh́n thấy bố rầu rĩ, lo sợ ảnh hưởng đến sức khoẻ nên đề
nghị bố đến trông coi hộ nhà cho nó và cũng chăm sóc vườn cây
cảnh, coi như có tí công việc làm cho vui. V́ thương con và cũng
nghĩ việc chăm sóc vườn tược cũng là công việc thích thú nên tôi
đă khăn gói theo đề nghị của con. Nhưng chỉ sau vài ba ngày sống
trong căn nhà rộng lớn, im ắng như chùa bà Đanh đă làm tôi thấy
chán muốn bỏ về nhưng nghĩ đă hứa với con, hơn nữa cũng chẳng
dài lâu ǵ nên đành cố vui mà ở lại.
Một hôm, sau khi ăn xong bữa trưa, ngủ một giấc đến khoảng 3 giờ
chiều mới thức dậy. Đưa mắt nh́n ra bên ngoài thấy bầu trời mờ
mờ mây che, hàng cây cảnh trong vườn lay động v́ gió nhẹ từ mặt
sông thổi lên. Cái nóng cháy người của Sàigon vào tháng 3 h́nh
như đă biến mất. Muốn biết tí chút vể nơi con ḿnh sinh sống,
tôi nhờ bà người làm chỉ dẫn cho biết vài nơi xầm uất của khu
vực để làm một cuộc đi dạo. Lang thang một lúc, tôi đến một chỗ
tạm gọi là ồn ào nhất của khu vực, nhưng thật ra nó chỉ có vài
con đường xen kẽ nhau, nếu có tí khác với những con đường khác
là những con đường ở khu này có lề đường rất rộng, lát ghạch
sạch sẽ. Hai bên đường những cây bàng xum xê, che phũ gần như
hết cả mặt đường nhờ vậy không gian ở đây rất dễ chịu. Có lẽ v́
mát mẻ như vậy nên phần lớn dân cư ngụ trên con đường này đều mở
cơ sở kinh doanh. Nơi th́ quán cà phê, nơi th́ hàng ăn, quán
nhậu… Khách th́ đủ mọi thành phần từ trung tâm thành phố hẹn ḥ
mà đến, nhưng cũng không ít dân cư ngụ trong khu vực đi hóng mát
dọc theo gịng sông rồi ghé vào giải khát, nghỉ chân.
Đi được một lúc, đưa tay lên nh́n đồng hồ thấy vẫn c̣n sớm mà về
nhà cũng chẳng có ǵ vui, nên tôi t́m một chỗ ngồi dưới gốc cây
bàng của một quán nước giải khát. Gọi ly cà phê đá ngồi nhâm nhi
đưa mắt bâng quơ nh́n sinh hoạt của con đường. Chưa uống xong
nửa ly cà phê, th́nh ĺnh từ quán ăn nhậu ở phía sau lưng vang
lên vài tiếng chửi bới thô tục đă làm tôi ṭ ṃ quay lại. Một
ông già tàn tật bán vé số với đôi nạng ép sát dưới nách, trên
tay cầm một xấp vé số. Ông già đang run sợ t́m cách lùi xa cái
bàn ngổn ngang đồ ăn thức uống. Ngồi chung quanh là bốn thanh
niên mắt đỏ gay gắt v́ rượu đang tức tối, la hét ông già. Nghe
vài lời qua tiếng lại của bốn thanh niên và lời nói lí nhí, sợ
hăi của ông già, đă cho tôi biết sơ sài sự việc. Vài ngày trước
nhóm bốn người này đă đặt mua trọn một lô số nào đó, nhưng không
biết v́ lư do ǵ, hôm nay gặp lại, ông già lại không có như đă
hứa nên họ tức giận, chửi mắng . Họ c̣n đe doạ bắt ông ta phải
bồi thường bằng cách bán rẻ cho họ những tờ vé số khác loại. Dĩ
nhiên ông lăo không đồng ư nên gây ra to tiếng ! Nhưng có lẽ
nh́n thân thể tàn tật của ông lăo và cũng nhờ lời can gián của
một người biết điều hơn trong nhóm, nên sự việc cũng trở lại im
lặng.
Ông lăo lại lê tấm thân tàn tật trên cặp nạng đến các bàn khác
trong quán nhậu, nhưng cũng chỉ được những cái lắc đầu, từ chối.
Với vẻ b́nh thường dù không có ai mua vé số, ông lăo chậm răi
khập khiễng ra khỏi quán, tiến đến chiếc xe lăn đang đậu bên
cạnh đường trước quán ăn. Bằng nhiều động tác khó khăn nhưng rất
thuần nhuyễn ông ta leo len chiếc xe lăn, gác hai cây nạng bên
cạnh xe rồi dùng 2 tay lăn bánh cho xe di chuyển. Ông ta vượt
qua quán cà phê mà tôi đang ngồi rồi dừng lại ở trước quán phở
bên cạnh. Cũng với những động tác quen thuộc ông ta lại xuống
khỏi xe lăn, với xấp vé số trên tay, cặp nạng dưới nách, ḍ dẫm
từng bước một, chậm răi tiến đến những các bàn có khách trong
quán phở, sát bên với quán cà phê mà tôi đang ngồi
Lúc này đây, tôi mới có dịp quan sát kỹ ông già. Có lẽ ông ta ở
khoảng 65 hay 70 tuổi, một người già nghèo tàn tật, da xạm đen,
mái tóc chưa bạc hết nhưng rất thưa nên hiện rơ những khoảng hói
trên đầu. Đôi cánh tay dù xương xẩu nhưng coi vẻ c̣n cứng chắc
tí chút. Có lẽ nhờ vậy mà ông ta c̣n có sức để lăn bánh xe khi
di chuyển, cũng như chiụ đựng được sức nặng của cơ thể đè trên
cặp nạng ở dưới nách. Thân thể tong teo, nhất là phần mông bị
tóp lại nối với chiếc chân trái vô dụng như một cành cây nhỏ,
lỏng thỏng buông xuống đất. Chân bên phải cũng tóp lại nhưng có
vẻ c̣n cảm giác và sức lực để chống đỡ phần nào thân thể cùng
với cặp nạng mỗi khi di chuyển. Chiếc quần ka ki mầu vàng đất
cũ, quá rộng so với thân thể và cặp chân tê liệt của ông ta, đă
được cắt ngắn cho không vướng víu khi di chuyển. Phía trên là
chiếc áo rộng thùng th́nh, trên ngực áo có 2 chiếc túi. Túi bên
trái lép xẹp, túi bên phải đầy đặn hơn. Trước ngực ông ta đeo
một cái túi có quai ṿng qua cần cổ, chắc là đựng vé số.
Đến mỗi bàn ông xoè tập vé số ra mời khách, nếu ai muốn mua, ông
đưa cả tập vé cho người mua tự lựa chọn theo ư muốn rồi tính
tiền trả cho ông ta. Khách trả tiền ông nhận và cho vào túi bên
phải, nếu cần trả lại tiền c̣n dư, ông cũng móc từ túi phải ra
trả lại khách. Thỉnh thoảng có người khách mua xong, nhưng khi
ông trả lại tiền thừa. Có thể v́ quá ít hay v́ muốn giúp đỡ ông
ta, họ phất tay tỏ ư tặng ông ta, ông lăo nhận và nói lời cám
ơn. Nhưng ông ta lại bỏ món tiền đó vào túi bên trái. Ban đầu
nh́n theo, tôi hoàn toàn không chú ư đến sự khác biệt của 2 loại
tiền mà ông ta nhận từ khách mua xổ số. Tôi nghĩ rằng, đó chỉ là
thói quen hay một cách phân biệt tiền giá trị lớn nhỏ mà thôi.
Nhưng sự việc cứ lập đi lập lại đă làm tôi lạ lùng và càng chú ư
dơi theo hành động kỳ lạ của ông lăo. Tôi chắc chắn do ông ta cố
ư và có mục đích ǵ đó.
Cuối cùng ông ta đến quán cà phê, nơi tôi đang ngồi, dễ dàng cho
tôi quan sát hơn. Ông ta đến cái bàn khá gần bàn của tôi, nơi đó
có 3 người trẻ tuổi, hai trai , một gái, họ cũng ngồi uống cà
phê như tôi. Cũng như các nơi khác, ông xoè tập xổ số ra trước
mắt ba người trẻ nói câu mời chào. Cả ba người h́nh như không
muốn ông ta làm gián đoạn câu chuyện mà họ đang say mê bàn luận
nên họ chẳng thèm nh́n ông ta mà chỉ xua bàn tay ra ư đuổi ông
ta đi chỗ khác. Ông ta im lặng đi sang bàn ngay bên cạnh tôi.
Quanh bàn này có 4 người tuổi trung niên họ uống bia, trên bàn
có vài đĩa cá khô nướng làm mồi nhậu. Ngay khi ông già xoè tập
xổ số ra trước mặt họ, ông ta chưa kịp mời th́ một người trong
số họ đă cầm lấy xỉa từng tấm vé số ra xem, rồi quay sang bàn
luận, hỏi ư ba người bạn khác cùng bàn. Sau một lúc tính toán,
mỗi người nhận lấy 2 tấm. Tập vé c̣n lại họ trả cho ông ǵa. Cả
bốn người khách móc tiền ra thanh toán riêng biệt. Trong số họ
có một người đưa cho ông ta tờ tiền giá trị lớn nên ông già phải
thối lại cho người khách. Ông già lựạ chọn vài tờ tiền trong xấp
tiền của 3 người kia vừa trả, nhưng cũng không đủ nên ông ta tḥ
vào túi bên phải lấy thêm vài tờ nữa rồi đưa lại cho người
khách. Trong khi ông khách mua vé số đếm món tiền trả lại thi
ông già cho những đồng tiền vừa thu của khách vào túi bên phải.
Người khách trả tiền giá trị lớn sau khi đếm xong, anh ta rút ra
môt tờ nhét vào tay ông già và nói :
-Biếu ông vài ngàn coi như mua cái hên của ông nhe !
Ông già mỉm cười, nói câu cám ơn người khách rộng răi rồi nhận
đồng tiền bỏ vào túi bên trái trước khi chậm răi đi đến bàn của
tôi. Kín đáo nh́n ông ta, tôi không đưa tay nhận lấy tập vé số
mà ông ta đang xoè ra trước mặt. Tôi im lặng móc túi ra một tờ
giấy 20 ngàn đồng, đưa tận tay ông ta. Ông lăo đưa tập vé đến
sát tôi hơn và nói :
-Ông lựa vé đi !
Tôi vẫy tay ra vẻ không cần và nói với ông ta :
-Tôi có mua vé số bao giờ đâu! Xin biếu ông tí tiền để sinh sống
mà thôi.
Ông già ngước mắt nh́n tôi có tí cảm động nói câu cám ơn cùng
với cái cúi đầu chào trước khi bỏ tờ giấy bạc tôi vừa cho vào
túi bên trái rồi mới đi sang bàn khác.
Cứ như vậy, ông già tàn tật vào bán vé số cho khách trong 1 hay
2 quán rồi lại ra với chiếc xe lăn và di chuyển đến vài quán
khác . Tôi vẫn ngồi nhâm nhi ly cà phê theo dơi hành động kỳ lạ
của ông già khi thu tiền từ khách hàng. Cho đến một lúc tất cả
khoảng 7, 8 quán trên khúc đường đă được ông già đi qua. Tôi
nghĩ chắc ông ta sẽ trở lại v́ đoạn đường kế tiếp không có hàng
quán ǵ cả và có vẻ nhem nhuốc, nghèo hơn với những căn nhà lá
lụp xụp. Nhưng ông già vẫn lăn xe tiếp tục, cho đến một nơi, dù
xa chỗ tôi ngồi nhưng tôi vẫn có thể nh́n thấy ông ta rơ ràng.
Ông ta dừng lại, dùng đôi tay quay chiếc xe sang phải rồi lăn xe
đến trước một căn nhà lá siêu vẹo sát bên lề đường. Thật ra phải
nói đó là chiếc cḥi lá mới đúng v́ nó chỉ được cấu tạo bởi vài
tấm liếp bằng lá xen kẽ vài miếng ván ép loang lổ sơn và dầu hắc
ghép vào nhau. Mái nhà xập xệ bằng lá chen lẫn với vài tấm tôn
hoen rỉ. Ông ǵa đến sát căn cḥi, gơ vài tiếng vào cửa liếp rồi
cấ tiếng gọi, nhưng tôi không nghe rơ v́ quá xa. Vài phút sau,
tấm liếp căn nhà được mở, một ông rất già khập khiễng chống gậy
đi không muốn vững hiện ra, tỏ vẻ mừng rỡ khi nh́n thấy ông già
bán vé số. Họ nói với nhau vài câu ǵ đó rồi ông già bán vé số
móc ở dưới gầm chiếc xe lăn ra một bịch giấy khá lớn, đồng thời
móc túi bên trái, lấy hết tiền ra đưa cả bịch giấy và nắm tiền
cho ông già kia. Sau đó họ lại nói với nhau một lúc rồi ông già
bán vé số quay xe ra đường tiếp tục lăn xe đến một khúc quanh
quẹo vào và biến mất.
Tôi ngồi, nh́n thấy tất cả h́nh ảnh đó. Tôi nghĩ rằng hai ông
già có thể là anh em hay có liên hệ thân thiết ǵ đó, cả hai
cùng sống trong cái cḥi đó. Ông tàn tật c̣n khoẻ mạnh hơn nên
đi bán xổ số để nuôi ông kia già yếu hơn. Với suy đoán hợp lư
như vậy, tôi chẳng c̣n mang thắc mắc ǵ khi về nhà vào buổi
chiều tối nữa. Nhưng nhớ lại cái không gian vừa đến có chút hoạt
động đó đă cho tôi tí chút thích thú, ít ra trong mấy ngày vô vị
c̣n lại mà tôi phải coi nhà cho thằng con như đă hứa. Ngày hôm
sau, cũng sau bữa cơm và giấc ngủ trưa khá dài. Tôi lại chậm răi
đi dạo đến con đường đó. Cũng t́m một quán cà phê để nhâm nhi,
thả lỏng tâm hồn và nhăn giới theo những diễn tiến hiện ra trước
mắt ḿnh.
Một lúc sau, ông già bán vé số cũng đến, cũng chiếc xe lăn dừng
dưới lề đường. Cũng với những động tác thành thạo nhưng khó khăn
mỗi khi ông ta lên xuống và khập khiễng với đôi nạng kẹp dưới
nách để đi đến từng bàn, với tập vé số trên tay mời chào khách.
Rồi cũng với hành động khác thường, phân biệt đồng tiền khi nhận
từ khách mua vé số khi cho vào túi áo. Tôi vẫn nh́n theo ông ta
từ xa cho đến lúc ông ta đến sát bàn tôi đang ngồi. Tôi vẫn chú
ư những động tác khác thường với đôi mắt ṭ ṃ thích thú. Không
biết ông lăo c̣n nhớ tôi, người khách không mua vé số mà chỉ
biếu ông ta tiền chiều hôm qua hay không. Nhưng ông ta vẫn b́nh
thản ch́a tập vé số trước mặt tôi với câu mời hoàn toàn b́nh
thường. Tôi cũng chẳng thèm để ư, im lặng lại rút ra tờ 20 ngàn
đồng, đưa cho ông ta mà không nh́n, cũng không cầm lấy tập vé
số. H́nh như có tí ngạc nhiên với hành động của tôi, ông lăo
nh́n tôi, nói nhẹ :
-Tôi đi bán vé số, không muốn ép bất cứ ai, không mua mà vẫn
phải cho tiền. Ông không muốn mua th́ tôi đi, chẳng có ǵ buồn
ḷng cho tôi và áy náy cho ông cả!
Nói xong, ông ta đưa tập vé số gần tôi hơn, nói tiếp :
-Th́ ông cứ chọn lấy vài tấm, ít ra cũng vui cho ông và cả cho
tôi nữa. Tôi khỏi phải thắc mắc v́ nhận tiền của người khác một
cách vô lư!
Tôi mỉm cười nhét đồng tiền vào tận tay ông ta, và nói :
-Tôi không mua vé số bởi v́ tôi không có nhu cầu cần đến món
tiền to lớn. Cuộc sống đơn giản của tôi vừa đủ với những cái tôi
đang có! Ông nghĩ mà xem tôi có nên mua vé số không? Mua để làm
ǵ nhỉ khi ḿnh không cần đến nó! C̣n tặng ông tí tiền nho nhoi
này, vừa đủ mời ông một ly cà phê lề đường. Chẳng có ǵ để ông
phải thắc mắc cho mất vui.
Nghe tôi nói vậy, ông già nh́n tôi có vẻ cảm đông. Nói câu cám
ơn kèm theo cái cúi đầu thân thiện, rồi cầm lấy tờ giấy bạc bỏ
vào túi bên trái trước khi khập khiễng với đôi nạng đi sang bàn
khác. Tôi vẫn đưa mắt nh́n theo ông già. Trực giác cho tôi biết
từ con người nghèo khổ, tàn tật này có cái ǵ đó làm tôi ṭ ṃ,
thích thú. Cuối cùng tôi cũng thấy ông ta đến căn cḥi lá gặp và
đưa cho ông già kia nắm tiền mà ông ta móc hết từ túi áo bên
trái cùng một cái bịch khá lớn từ dưới sàn chiếc xe lăn, sau khi
ông ta đă đi hết các quán trên con đường. Lần này nhờ cái bịch
bằng ny lông, tôi lại ngồi ở quán nước khá gần căn cḥi nên nh́n
rơ hơn . Trong bịch ny lông có vài vật to, dễ nhận ra là bó rau,
túi gạo khoảng 1kilô và một con cá bằng cán dao. Sau khi hai ông
già nói chuyện ǵ đó một lúc, họ lại rời nhau, ông già kia lại
trở vào cḥi đóng tấm liếp cửa lại. Ông già bán vé số trở ra,
cũng với những động tác như hôm qua rồi biến mất sau khúc quanh.
Với khá nhiều suy nghĩ và đoán ṃ về liên hệ giữa hai ông già,
cũng như hành động và lời đối đáp rất sơ sài với tôi vừa qua cho
tôi biết ông lăo bán vé số này không phải là người thấp kém. Tự
nhiên tôi có cảm giác muốn biết rơ hơn về hai ông già đó. Nhưng
ngày mai vợ chồng con trai tôi trở về, mà tôi th́ cũng muốn mau
mau xong công việc cho thằng con để trở lại nhà của ḿnh, nó
quen thuộc với tôi hơn. Sau một lúc suy nghĩ, tôi đứng dậy ra
khỏi quán, hướng đến căn cḥi lá với ư định gặp ngay ông già yếu
đuối, chống gậy để hỏi chuyện và nếu cần cũng giúp đỡ họ tí
chút.
Đưa tay gơ vào tấm liếp vài tiếng nhè nhẹ cùng với tiếng gọi chủ
nhân. Tôi chờ đợi không lâu th́ ông già chống gậy đi ra. Ngay
khi nh́n thấy đôi mắt ông ta, với mầu trắng đục kèm theo dáng
điệu nh́n không rơ người đối diện của ông ta. Tôi đoán ông ta
chưa thực sự mù nhưng chắc chắn không thể nh́n được rơ ràng nữa.
Trong vẻ lờ đờ v́ nh́n không rơ đó , ông già có tí ngạc nhiên
hỏi tôi :
-Ông t́m ai ?
Thành thật, tôi cũng bị luống cuống tí chút với câu hỏi của ông
già chỉ v́ tôi đă không có tí ǵ chuẩn bị khi gặp ông ta, một
người mà tôi và ông ta chưa một lần quen biết. Ngập ngửng tí
chút tôi trả lời :
-Tôi có chút quen biết ông già bán vé số, nên….
Chỉ nói được vậy, tôi lại rơi vào ngập ngừng v́ không t́m được
lư do. Cũng may là ông già vội vàng trả lời tôi :
-À! ông Khoa, ông ấy vừa đến đây mang cho tôi thức ăn, rau cỏ và
cả tiền nữa… Có chuyện ǵ không ông ?!!
Nhờ câu nói của ông già đă hoá giải lúng túng. Tôi đă có dịp tṛ
chuyện với ông ta ! Cuối cùng tôi đă hiểu về họ. Họ chỉ là người
bạn tàn tật b́nh thường, ngẫu nhiên gặp nhau trong việc t́m sống
trên đường phố mà quen nhau, hoàn toàn không có liên hệ ǵ họ
hàng cả. Ông Khu, tên ông già trước mặt tôi, dù vẫn c̣n đôi
chân, nhưng bị bệnh tê liệt dần dần. Ban đầu mới bị bệnh ông ta
c̣n có thể di chuyển được, nên cũng vào nghề bán vé số dạo kiếm
sống. Vợ ông trước đây c̣n khoẻ mạnh ở nhà lo việc bếp núc cho
hai người, đồng thời nhận quần áo từ khu công nghiệp về giặt ủi
kiếm thêm thu nhập. Cuộc sống của họ dù nghèo nhưng vẫn không
đến nỗi cùng cực v́ nhờ cả hai không vướng vào bất cứ tật ách
nào. Chỉ đáng buồn là họ không có con cháu để nương tựa khi tuổi
già.
Trong một lần đi nhận hàng giặt ủi bà Khu bị tai nạn xe cộ mà tê
liệt toàn thân. Không lâu sau đó ông Khu cũng bị căn bệnh tê
liệt tấn công mạnh hơn. Đồng tiền dành dụm cũng như tiền bồi
thường do tai nạn đều đội nón ra đi với bệnh tật của hai người.
Cuối cùng hai ông bà đành sống nhờ vào tiền giúp đỡ của hàng xóm
hay cơ quan phường xă, đặc biệt từ ông Khoa. Người bạn quen nhau
ngẫu nhiên trên đường phố đó đă cảm thông hoàn cảnh khốn khổ,
không may của bạn mà giúp đỡ.
T́nh trạng ông Khoa thật ra cũng chẳng khá hơn ǵ. Ông bị bệnh
sốt tê liệt từ bé, cha mẹ mất sớm, sống nhờ vào người anh trai
duy nhất, nhưng người anh không may bị chết trong chiến tranh
khi c̣n độc thân. Lúc người anh chết ông Khoa mới 17,18 tuổi đă
phải bước vào việc kiếm sống với tấm thân tàn tật. Nhưng thời
gian cũng qua dần, cuộc sống dù khốn khổ , ông Khoa vẫn cưới
được vợ rồi có một đứa con trai. Gia đ́nh tạm gọi là yên ấm cho
đến khi vợ ông bị bệnh mà mất khi đứa con mới 15 tuổi. Trong
hoàn cảnh thiệt tḥi của kẻ tàn tật, nghèo túng đó, ông lại phải
bù đầu vào việc kiếm sống nuôi bản thân và đứa con đang tuổi lớn
khôn. Chính v́ lo kiếm tiền sinh nhai, ông đă lơ là, không chú ư
đến giáo dục cho con. Kết quả thằng con bị lôi kéo vào đường
nghiện hút, sát nhân nên đă bị xă hội đào thải khi tuổi gần 30.
Hiện nay ông Khoa vẫn sống nhờ vào vợ chồng của một người cháu
họ xa trong một khu lao động không xa nơi vợ chồng ông Khu đang
sống. Cả hai vợ chồng người cháu của ông đều làm công nhân thu
gom rác trong khu vực. Để tránh ghánh nặng cho vợ chồng cháu,
ông Khoa bước vào nghề bán vé số.
Hàng ngày tiền thu được từ việc bán vé số, ông Khoa coi như tiền
công lao thực sự của ḿnh, được dành cho cuộc sống của chính cá
nhân ông và đóng góp cho vợ chồng người cháu tí chút, coi như
đền bồi sự dung dưỡng của cháu. C̣n những món tiền thu được từ
khách mua vé số cho thêm v́ thương hại thân thể tàn tật của ông
hay tiền thối lại quá nhỏ bé nên khách cho tặng. Món tiền không
trong danh sách này được ông để riêng vào chiếc túi bên trái,
dành để cưu mang, giúp đỡ vợ chồng ông Khu, người bạn có cảnh
ngộ bi thương hơn ḿnh. Ái ngại cho bệnh tật và gần như mù loà
của người bạn nên hàng ngày trên đường bán vé số, ông thường mua
thức ăn cho vợ chồng ông Khu. Ḷng tốt của ông đă kéo dài nhiều
năm. Ông Khu rất cảm động, coi ông Khoa không những là người bạn
chí thiết mà c̣n là một vị ân nhân vĩ đại của vợ chồng ông ta.
Đă nhiều lần v́ muốn t́m cách thoát ra khỏi ḷng tốt bao la của
người bạn, ông Khu cũng tính đi làm kẻ ăn xin. Nhưng lại vướng
người vợ bệnh hoạn ở nhà một ḿnh không ổn, nên cuối cùng đành
xấu hổ mà tiếp tục chấp nhận nhận sự giúp đỡ của bạn.
H́nh như hiểu sự áy náy của bạn, ông Khoa đă nhiều lần an ủi và
đề nghị ông Khu yên ḷng ở nhà chăm sóc người vợ cho đến phút
cuối đời để trả đủ nghĩa phu thê. Rồi sẽ tính đến việc t́m cách
sinh nhai. Thấm thoát bà Khu đă liệt giường đă hơn 5 năm, sự
giúp đỡ của người bạn tuyệt vời vẫn tiếp diễn.
Nghe ông Khu tâm sự, tôi ngẩn ngơ, cảm phục t́nh bạn của họ.
Trong trí nhớ tôi h́nh ảnh người đàn ông tật nguyền với chiếc xe
lăn, hàng ngày thu gom từng đồng tiền bé nhỏ để giúp đỡ bạn đă
làm tôi thẩn thờ suy nghĩ. Ngần ngại tí chút tôi nói với ông Khu
muốn vào thăm vợ ông ta. Đúng như vậy, trên chiếc chơng tre cũ
kỹ, đen đủi, khá rộng, đủ chỗ cho hai người nằm. Một người đàn
bà thân thể mỏng dính như dán xuống mặt giường đang nằm sát nửa
bên phần phía trong chiếc giường. Trên người bà ta một mảnh chăn
mỏng dơ bẩn nhẹ nhàng lên xuống theo nhịp hô hấp. Góc bên kia
phía trong căn cḥi là chỗ nấu ăn luộm thuộm với vài dụng cụ nấu
ăn cáu bẩn cùng với cái bếp xét rỉ. Khắp căn cḥi vài chiếc quần
áo lẫn lộn với giẻ lau treo lền khên trên vách, trên trần nhà …
Tất cả chỉ có vậy, cuộc sống của một cặp vợ chồng già, bệnh tật
đă làm tôi cúi đầu thương cảm. Đứng xững lại, đưa mắt nh́n bao
quát một lúc, tôi đi nhẹ nhẹ tiến đến gần chiếc giường, có ư nói
với người đàn bà bệnh hoạn đó vài lời hỏi thăm. Nhưng ông Khu
buồn bă nói như muốn khóc với tôi:
-Hiện nay bà ấy chỉ là một khúc cây, ư thức hoàn toàn không c̣n
nữa. Cám ơn ông đă có ḷng đoái hoài.
Nghe ông Khu nói như vậy, tôi dừng lại, bỏ ư định thăm hỏi bà vợ
ông ta v́ không muốn làm ông ta đau ḷng hơn. Tôi nói với ông ta
vài lời an ủi, rồi móc hết tiền trong túi ra, tế nhị đưa vào tay
ông ta:
-Tôi chẳng biết bằng cách nào chia xẻ nỗi cơ cực và bất hạnh của
bà, ngoài việc giúp đỡ ông tí tiền c̣n sót lại trong túi, mong
ông nhận cho.
Trên đường trở về nhà, h́nh ảnh ông già bán vé số tốt bụng luôn
luôn chập chờn trong trí nhớ của tôi đă làm tôi suy nghĩ rất
nhiều. Tôi tự hỏi, trong thế giới xô bồ, vật chất ngày nay vẫn
c̣n có những con người tốt bụng một cách âm thầm, đáng kính nể
như ông già tàn tật, nghèo khó và bất hạnh này sao?
Theo tính toán th́ tối mai, con trai tôi sẽ trở về, nó sẽ chở
tôi về lại nhà của tôi ở gần trung tâm Saigon. Với chương tŕnh
như vậy tôi dự tính chiều ngày mai, trước khi con trai tôi từ Hà
nội trở về, tôi sẽ cố tranh thủ để gặp lại người đàn ông bán vé
số tốt bụng mà tôi cảm mến đó thêm một lần nữa.
Khác với 2 ngày trước, hôm nay, ngày cuối cùng tôi không ngủ
trưa như thói quen mà nhờ bà giúp việc lo cho tôi một bịch trái
cây, một tầy gị lụa nho nhỏ và dĩ nhiên có tí tiền bạc rồi tôi
lại đến con đường, nơi mà tôi muốn gặp ông già bán vé số. Với dự
t́nh tôi sẽ gặp ông già bán vé số trước rồi cùng với ông ta đến
nhà ông già kia nói chuyện. Có lẽ v́ không ngủ trưa và sốt ruột
nên tôi đến hơi sớm so với 2 ngày trước. Khi vừa đến đầu đường
tôi đă trông thấy ông già bán vé số đang g̣ ḿnh với cặp nạng
bước lên lề đường để vào cái quán đầu tiên ở góc đường, đó là
một quán nhậu, khá đông khách. Ông già đến cái bàn dài đầu tiên,
có khoảng 12, 13 người ngồi quanh. Hầu hết ở lứa tuổi trung
niên, trang phục của nhóm khách này khá sang trọng, thể hiện đám
khách là giới giầu có và trí thức. Trong nhóm có 5 người phụ nữ.
Qua những lời nói khá to vang ra cả bên ngoài của nhóm khách.
Cũng như những lời họ mời chào, xưng tụng, thách đố nhau ăn và
uống, cho tôi biết họ là nhân viên có chức vụ của một công ty
tài chánh hay ngân hàng nào đó.
Ông già xoè tập vé số ra trước mặt người khách gần ông ta nhất,
h́nh dung cũng bệ vệ nhất rồi nói lời mời mua vé số. Nhưng cũng
đúng lúc đó ông khách này giơ cao chiếc ly ruợu lên hướng về
nhóm bạn thách thức cạn ly! Có lẽ hành động xen kẽ của ông già
bán vé số đă làm giảm hứng thú của kẻ mời rượu, nên ông khách
lấy tay hất nhẹ tay ông già bán vé số rồi bực bội chửi :
-Thằng ăn mày! Đi chỗ khác! Đồ chó!
Với cái gạt tay nhẹ của ông khách, ông già chỉ hơi mất thăng
bằng tí chút, nhưng ông ta vẫn phải gượng lại để lấy thăng bằng
và cũng chưa kịp phản ứng ǵ với câu chửi nặng lời của người
khách. Ngay lúc đó, một phụ nữ trong nhóm ăn nhậu, ngồi gần với
ông khách thô lỗ, vừa cười vừa nói lớn:
-“ Xếp Tổng “ ơi, xếp say rồi sao mà không nh́n thấy, đó là
người bán vé số, chứ không phải là người ăn mày đâu !
Lời nói đùa của bà ta đă làm cả nhóm khách cười. Vài người c̣n
cất tiếng phụ hoạ với người phụ nữ nữa. Không biết đó là lư do
càng làm cho ông khách thô lỗ bực tức hơn hay sao? Ông ta vổ nhẹ
vai người phụ nữ vừa nói và hướng vào bà ta với giọng sai khiến:
-Ôi! Thằng bán vé số hay thằng ăn mày th́ có ǵ khác nhau đâu!
Chỉ làm cho tao bực ḿnh! Con Cúc, bố thí cho nó vài ngàn đề nó
“biến” đi cho tao đỡ mất hứng!
Lại một tràng cười vui cùng những lời nói lè nhè v́ say rượu của
đám khách vang lên đồng lơa hay giỡn đùa với ông khách bệ vệ và
người phụ nữ tên Cúc. Dù đùa giởn nhưng người phụ nữ có vẻ nể sợ
ông khách thô tục, bà ta mở xách tay lấy ra một tờ giấy bạc, đưa
truớc mặt ông già bán vé số với câu nói xua đuổi:
-Thôi cầm lấy! đi đi, đừng làm phiền người ta nữa!
Đứng bên ngoài, v́ quá xa và tiếng nói của ông già bán vé số quá
nhỏ nên tôi không biết ông ta đă nói ǵ với bà khách. Nhưng chỉ
thấy ông già lắc đầu, đưa bàn tay đang cầm vé số phất phất vào
đồng tiền trên tay của người phụ nữ ,ư nói không muốn nhận, rồi
khấp khểnh lui ra đằng sau! Người phụ nữ h́nh như bực bội v́ câu
trả lời ǵ đó của ông già hay thái độ không nhận tiền của ông
ta. Bà ta nhét tiền trở lại túi xách, đưa mắt lườm, nguưt ông
già, rồi nói lớn :
-Đồ ăn mày, nghèo rớt mùng tơi mà c̣n làm cao, sĩ diện! Cút đi
cho người ta ăn uống!
Tôi cũng không biết ông già có nghe thấy không. Nhưng ông ta im
lặng ḍ dẫm bước đi rời xa đám khách, hướng đến chiếc bàn với
nhóm khách khác trong quán. Đằng sau ông ta vẫn ồn ào tiếng cười
nói đùa dỡn của nhóm khách. Tôi đă chứng kiến trọn vẹn diễn tiến
không mấy vui đó. Trong ḷng tôi chợt phát sinh một cảm giác bực
bội với những câu nói, hành động bất nhă, vô giáo dục, đầy tính
cách khinh người nghèo khó của đám khách sang trọng và chức vụ
đang ồn ào trong quán. Tôi tự hỏi nếu họ biết và hiểu được con
người mà họ vừa chửi bới, khinh rẻ đó, là một người rất chí t́nh
v́ bạn bè, có ḷng nhân đạo đáng phục, họ sẽ nghĩ sao và có phản
ứng thế nào với ông ta ? Tôi hy vọng trong đám khách khoảng 12,
13 người đó vẫn có người nào đó có con tim và khối óc để họ có
được cái nh́n vào xă hội nơi họ đang sống một cách cảm thông và
nhân bản hơn. Tôi không dám bi quan quá mức nhưng tôi nghĩ nếu
có được 2 hay 3 người trong số họ th́ đúng là một hiện tượng may
mắn cho xă hội chúng ta ngày nay vậy.
Cũng với suy nghĩ đó, tôi cũng tự hỏi, những người khách với vẻ
sang trọng, học vị cao, chức vị lớn đó. Họ mở miệng ra với những
câu nói chửi bới khinh rẻ kẻ nghèo dốt hơn họ th́ thực chất của
những mảnh bằng cấp, chức vị cao của họ có chắc chắn đúng với
giá trị của nó không? Theo tôi họ vẫn c̣n thua xa tư cách của
ông già tàn tật bán vé số vừa bị họ khinh rẻ chửi bới !
Sự việc không vui đó đă làm tôi mất hứng thú, không muốn gặp ông
lăo bán vé số nữa. Tôi không muốn gặp ông ta bởi v́ tôi cảm thấy
khó b́nh thản chuyện tṛ với ông ta và cả người bạn trong căn
cḥi lá nữa. Nhưng túi quà mang theo đă làm tôi khó nghĩ. Cuối
cùng tôi lấy mảnh giấy viết vài chữ rồi kín đáo đến chiếc xe lăn
của ông già đậu bên lề đường. Bỏ túi thực phẩm trên ghế ngồi của
chiếc xe lăn cùng với mảnh giấy, tôi viết : “Tuỳ nghi xử dụng!
“.
Lấy một tờ bạc 100 ngàn đồng cuộn trong tờ giấy khác với ḍng
chữ :” Tặng chiếc túi bên trái “ rồi tôi cột vào cái kệ để tay
bên trái của chiếc xe lăn.
Lấy một tờ bạc 500 ngàn đồng, cuộn vào mảnh giấy khác, trên đó
tôi viết dài hơn : “Tờ 500 ngàn này tặng riêng cho túi bên phải,
xin nhận đửng chối từ !” rồi cột vào cần tay bên phải chiếc xe.
Sau khi đă hoàn tất, tôi t́m một góc khuất, kín đáo theo dơi
phản ứng của ông già bàn vé số. Không quá lâu, ông già khập
khễnh từ quán ăn đi ra, tiến đến chiếc xe lăn. Có tí ngạc nhiên
khi nh́n thấy bịch quà và sau khi đọc tờ giấy, ông ta mở gói quà
ra nh́n bên trong , bên ngoài rồi im lặng tí chút bỏ nó xuống
chiếc giỏ ở dưới yên xe. Rồi chậm răi gỡ cuộn giấy bên tay trái
ra xem! Không biết có phải v́ tờ giấy 100 ngàn quá lớn với ông
ta hay quá ngạc nhiên v́ người cho tiền đă biết ư nghĩa của cái
túi trái, túi phải của ḿnh. Ông già thừ người ra, đưa mắt nh́n
bông lung ra vẻ suy tư rồi ông cầm đồng bạc xoay qua, xoay lại
vài ba lần. Chẳng biết nghĩ sao ông ta gấp đồng bạc lại rồi bỏ
vào túi bên trái. Xong đâu đấy, ông lăo gỡ cuốn giấy bên tay
phải, mở ra nh́n thấy đồng bạc 500 ngàn đồng, đọc xong mảnh
giấy. Ông ta thẩn thờ đến mức tôi đứng khá xa vẩn thấy được vẻ
xúc động hiện rơ trên khuôn mặt xám đen, trong ánh mắt và cả
trong vẻ lung túng khi cầm tờ giấy bạc. Sau một lúc quá xúc
động, ông ta quay đầu nh́n chung quanh như muốn t́m người chủ
nhân của những món quà đă làm ông ta thẩn thờ. Nhưng làm sao ông
ta t́m thấy được khi tôi cố ư lánh mặt?
Sau một hồi đưa mắt t́m kiếm không kết quả, ông lăo với tờ giấy
bạc 500 ngàn đồng trong tay, đầu ông ta cúi xuống nh́n tờ giấy
bạc ra chiều suy nghĩ rất mạnh. Một lúc sau h́nh như đă t́m được
b́nh thản, ông ta gấp tờ giấy bạc đưa lên định bỏ vào túi áo bên
phải. Nhưng khi bàn tay vừa chạm đến mép túi, ông ta dừng lại,
bỏ tay xuống rồi lại cúi đầu, thờ thẫn suy nghĩ ra vẽ chưa thực
sự t́m ra một quyết định . Măi một lúc, có lẽ buông tiếng thở
dài, ông ta đă t́m được quyết định, không cần lưỡng lự nữa, ông
ta cầm đồng bạc lên bỏ vào túi bên trái! Rồi trở lại động tác
thường nhật, xếp hai cây nạng vào bên cạnh chiếc xe lăn, rồi khó
khăn leo lên ngồi vào chiếc yên và dùng tay lăn bánh cho xe di
chuyển.
Tất cả diễn biến của ông già bán vé số đă được tôi quan sát rất
rơ ràng. Tôi đứng nh́n theo cho đến khi ông ta dừng lại trước
một quán khác trên con đường để tiếp tục việc mời khách mua vé
số, rồi tôi mới thủng thẳng ra khỏi chỗ nấp. Tôi đi chậm chạp
trở lại con đường về nhà con trai tôi với một tâm trạng rất khó
hiểu. Cái tâm trạng của một người mang cảm giác ngạc nhiên tột
cùng cũng như ḷng kính mến v́ đă nh́n thấy tư cách ngay ngắn
của một ông già tàn tật, nghèo đói. Rồi cũng chính trong cái cảm
xúc ngẩn ngơ đó tôi tự hỏi nếu tôi rơi vào hoàn cảnh bi đát như
ông già đó. Liệu tôi có can đảm, có ḷng tự trọng và cả ḷng
nhân đạo để làm như ông ta không ? Tự hỏi như vậy, nhưng tôi quá
rơ về tôi, cái tôi của tầm thường và mang khá nhiều tánh xấu th́
làm sao tôi có thể làm được như ông già bán vé số tàn tật, nghèo
đói và đáng nể đó được ?!
Lưu An ( Jan. 2013)
Read more:
http://www.ttxva.net/ong-lao-ban-ve-so/#ixzz33uUGDMAw