Món nợ tuổi hai mươi
Xương máu của nhiều thế hệ thanh niên miền Bắc đổ xuống chỉ để
hôm nay mọc lên những biệt thự nguy nga, sang trọng của các chủ
tịch, bí thư, ủy viên trung ương, ủy viên bộ chính trị, những kẻ
sống xa hoa trên một đất nước độc tài, tham nhũng, lạc hậu và bị
phân hóa đến tận cùng. Đảng CSVN nợ những người đă chết và c̣n
sống trong tật nguyền đau đớn quá nhiều thứ nhưng món nợ lớn
nhất mà Đảng không thể nào trả nỗi, đó là, món nợ tuổi hai mươi.
Trần Trung Đạo (Danlambao) -
(Đọc "Măi măi tuổi hai mươi", nhật kư của Nguyễn Văn Thạc,
người lính miền Bắc chết ở chiến trường Quảng Trị 1972)
Tôi đọc nhật kư Măi măi tuổi hai mươi của anh Nguyễn Văn
Thạc, người lính miền Bắc chết ở Quảng Trị lần đầu trên chuyến
bay từ California về lại Boston một thời gian ngắn sau khi phát
hành 2005. Nhật kư dày 296 trang, tính cả phần giới thiệu, bắt
đầu từ ngày 2 tháng 10 năm 1971, 28 ngày sau khi anh nhập ngũ,
đến trang cuối cùng ở Ngă Ba Đồng Lộc ngày 3 tháng 6 năm 1972.
Tôi đă có lần đề cập đến Măi măi tuổi hai mươi trong một
bài viết khác, nhân dịp 30-4 muốn viết một bài riêng.
Anh Nguyễn Văn Thạc sinh ngày 14 tháng 10 năm 1952 tại làng
Bưởi, Hà Nội. Cha mẹ anh có đến 14 người con, vốn là chủ nhân
một xưởng dệt nhỏ, có thuê người làm nhưng khi chiến tranh bùng
nổ phải bán hết và dọn về xă Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm. Gia đ́nh
đông đúc, đời sống khó khăn, mẹ anh phải đi cắt cỏ bán lấy tiền.
Dù nghèo khó, anh Thạc học rất giỏi tất cả các môn, nhất là môn
văn. Ngày 6 tháng 9 năm 1971, anh gia nhập bộ đội. Tháng 4 năm
1972 anh được đưa vào Nam. Anh viết cuốn nhật kư từ ngày 2 tháng
10 năm 1971 đến ngày 3 tháng 6 năm 1972. Trước khi tham gia
chiến trường Quảng Trị, anh đă gửi cuốn nhật kư cùng nhiều lá
thư về cho anh trai từ ngă ba Đồng Lộc. Hai tháng sau, ngày 30
tháng 7 năm 1972 anh chết tại mặt trận Quảng Trị sau khi chưa
tṛn một năm trong đời quân ngũ.
Các hệ thống truyền thông của Đảng tuyên truyền rằng trong “một
trận đánh ác liệt bên Thành cổ Quảng Trị, chiến sĩ thông tin
Nguyễn Văn Thạc đă bị trọng thương mảnh pháo đă cắt ngang đùi
trái trận chiến đẫm máu và hy sinh tại Cổ Thành Quảng Trị”.
Thật ra, theo lời anh Nguyễn Văn Hà người thương binh cùng trung
đội truyền tin và cũng là người đă mai táng anh Nguyễn Văn Thạc
kể lại với phóng viên báo Tiền Phong, anh Thạc không tham gia
trận chiến đẫm máu tại Cổ Thành và cũng chưa bắn một viên đạn
nào. Khẩu AK, bốn băng đạn vẫn c̣n nguyên vẹn. Sau khi vượt sông
Ba Ḷng, anh Thạc là người đầu tiên trong đơn vị bị pháo binh
VNCH bắn trúng. Cũng theo lời anh Nguyễn Văn Hà, anh Thạc c̣n
rất tỉnh táo tuy bị thương ở đùi. Máu ra nhiều nhưng không có y
tá để giúp đỡ, không một viên thuốc cầm máu hay giảm đau, và như
thế anh Thạc ra máu cho đến chết.
Anh đặt tên nhật kư là Chuyện đời nhưng được thay bằng
Măi măi tuổi hai mươi khi phát hành vào năm 2005. Giống như
Nhật kư Đặng Thùy Trâm, nhật kư Măi măi tuổi hai mươi
của Nguyễn Văn Thạc qua bộ máy tuyên truyền của đảng đă trở một
tác phẩm có số lượng phát hành kỷ lục và gây tiếng vang lớn tại
Việt Nam.
Anh Thạc thú nhận “ước mơ thầm kín” của anh là trở thành nhà
văn. Cũng v́ tập làm nhà văn nên văn trong nhật kư của anh không
có được nét tự nhiên. Anh tả cảnh hơi nhiều. Ví dụ, ngày 20
tháng 11 năm 1971 anh tả trong nhật kư: “Cơn gió thổi từ phía
đồi mặt trời qua hồ cá. Sương mù thốc nhẹ lên rặng phi lao ven
đường... Con trâu đi ngang, con cá trắng bơi dọc, và những ṿng
sóng h́nh tṛn tỏa rộng chung quanh... Sự sống hiện ra ở khắp
mọi chiều. Và chỗ nào mà chẳng có mầm xanh, chỗ nào mà chẳng có
giọt nắng h́nh quả trứng lăn nghiêng”; hay ngày 4 tháng 2
năm 1972, thay v́ ghi lại những ǵ xảy ra trong ngày, anh tả một
cơn gió mùa: “Cả rừng bạch đàn vặn ḿnh. Những cây bạch đàn
thân nâu lốm đốm trắng nghiêng ngả. Những chiếc lá thon dài nằm
ngang trong gió. Thấp thoáng trong rừng những mái nhà tranh và
những lều bạt. Gió mạnh phần phật những tấm tăng đă cũ. Gió reo
vù vù...”
Ngoại trừ t́nh yêu say đắm dành cho chị Như Anh mà tôi sẽ không
nhắc trong bài viết này v́ tôn trọng t́nh cảm riêng tư, anh Thạc
là sản phẩm kiểu mẫu của nền giáo dục xă hội chủ nghĩa Việt Nam.
Anh không được đi ra nước ngoài dù đi Liên Xô, đi Tiệp. Anh chỉ
nghe đài phát thanh Hà Nội, học tập lư luận chính trị từ các bài
diễn văn của Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, đọc truyện dịch của các tác
giả Liên Xô, đọc thơ Tố Hữu, Phạm Tiến Duật, các nhà thơ Liên
Xô, ngoài ra không có một nguồn tư liệu nào khác. Anh tả nhiều
hơn viết, một phần cũng v́ ở tuổi c̣n nhỏ sự gần gũi và va chạm
với xă hội c̣n khá ít.
Thần tượng tuổi trẻ của anh Thạc là Paven, tức Pavel Korchagin
trong Thép đă tôi thế đấy của Nikolai Ostrovsky. Lại cũng
Paven!
Ngày 24 tháng 12 năm 1971 anh viết về thần tượng Paven của anh:
“Dạo ấy Paven mới 24 tuổi. Ba năm của thời 20, anh đă sống
say sưa, sống gấp gáp và mạnh mẽ. Cưỡi trên lưng con ngựa cụt
hai tai trong lữ đoàn Buđionni anh đă đi khắp miền đất nước.
Cuộc sống của anh là một ḍng mùa xuân bất tận giữa cuộc đời. Đó
là cuộc sống của người Đảng viên trẻ tuổi, cuộc sống của một
chiến sỹ Hồng quân. Ḿnh thèm khát được sống như thế. Sống trọn
vẹn đời ḿnh cho Đảng, cho giai cấp. Sống vững vàng trước những
cơn băo táp của cách mạng và của cuộc đời riêng.”
Thép đă tôi thế đấy
là một trong những tác phẩm anh Thạc mang theo trên đường vào
Nam và được anh trích dẫn khá nhiều. Anh xem đó như là nhựa
sống: “Mêrétxép và Paven... Những người đầy nghị lực và có
thể nói được họ đă đi tới mục đích của đời ḿnh!” Anh hổ
thẹn v́ chưa được thành đảng viên CS giống như Paven: “Hôm
nay, lần đầu tiên trong đời ḿnh cảm thấy hổ thẹn với mọi người,
hổ thẹn với Paven, Pavơlusa thân yêu. Ḿnh chưa phải là một đảng
viên!”.
Ước mơ của chàng thanh niên Việt Nam 20 tuổi Nguyễn Văn Thạc là
được sống như Paven Korchagin. Chẳng lẽ anh không biết một số
rất đông anh hùng dân tộc Việt Nam, đă sống, chiến đấu và hy
sinh cho độc lập tự do của đất nước trong khi c̣n rất trẻ. Trần
Quốc Toản (1267-1285) “phá cường địch báo hoàng ân” năm
18 tuổi. Trần B́nh Trọng (1259-1285) “thà làm quỷ nước Nam
hơn làm vua đất Bắc” khi 26 tuổi. Nguyễn Thái Học
(1902-1930) “chết v́ tổ quốc chết vinh quang” lúc 28
tuổi. Cuộc đời họ là những bản hùng ca tuyệt vời gấp ngàn lần
hơn anh chàng Nikolai Ostrovsky bị tẩy năo kia.
Đọc phóng sự Vua An Nam (Le Roi d’Annam, Nguyễn Duy Chính
dịch) của kư giả Jean Locquart đăng trên Le Monde ngày 23 tháng
2 năm 1889 để biết tuổi trẻ Việt Nam đă sống và chết trung liệt
như thế nào. Kư giả Jean Locquart tường thuật khá chi tiết cảnh
biệt đội Pháp do Đại úy Boulangier chỉ huy bắt sống vua Hàm Nghi
chiều ngày 1 tháng 11 năm 1888:
“Một buổi chiều biệt đội của đại úy được tin là sau khi bị đội
lính dơng thiện chiến truy kích liên tục, cựu hoàng lẫn trốn
cùng với người tùy viên là Tôn Thất Thiệp con trai cựu phụ chính
Thuyết tại một làng hẻo lánh và kín đáo trong rừng núi cao
nguyên Giai. Biệt đội của Boulangier liền bao vây nơi nhà vua ở
và khi cửa chính bị đạp tung ra th́ thấy Thiệp đă thức giấc v́
tiếng động của vụ tấn công c̣n vua Hàm Nghi đang ngủ say ở bên
cạnh. Cả hai người đều để gươm trần ở bên cạnh và trong tay có
khí giới nhưng không chống trả được ǵ. Thấy chủ soái thất thế,
và để tránh cảnh tủi nhục khi bị bắt đem đi, Thiệp toan đâm chết
ông [vua Hàm Nghi], nhưng v́ quân Pháp dự tính bắt sống nên lập
tức nổ súng hạ gục Thiệp. Sau đó họ chặt đầu Thiệp và đem bêu
trên cọc tre ở ngoài chợ Dang-Kha là một nơi sầm uất và c̣n đang
xao động.”
Hai người gánh cả một non sông trong giai đoạn lịch sử vô cùng
bi tráng đó đều chỉ mới 18 tuổi, c̣n nhỏ tuổi hơn anh Thạc. Tôi
tự hỏi, khi dừng chân nghỉ ngơi trong hành tŕnh đầy gian khổ ở
Quảng Trị vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thiệp nói chuyện ǵ với nhau.
Một ông vua trẻ trước đây chưa từng ra khỏi Huế và một chàng vệ
sĩ c̣n trong tuổi vị thành niên hẳn không có nhiều điều trao
đổi. Nhưng có một điều chắc chắn họ đă từng chia sẻ, đó là mơ
ước một ngày dân tộc Việt Nam sẽ không c̣n làm nô lệ cho Tây.
Giọt máu của Tôn Thất Thiệp nhỏ xuống trên chiếc cọc tre cắm
ngoài chợ Dang-Kha và giọt nước mắt của vua Hàm Nghi nhỏ xuống
bên thành tàu Biên Ḥa trên đường đi đày cùng có một mùi đắng
cay, tủi nhục giống nhau.
Là sinh viên Đại học Tổng hợp Hà Nội và từng là học sinh giỏi
văn nhất miền Bắc hẳn anh biết Trần B́nh Trọng, Trần Quốc Toản,
Hàm Nghi, Tôn Thất Thiệp là ai, rất tiếc anh không được uốn nắn
để sống theo những tấm gương trung liệt đó.
Trong mùa hè đỏ lửa năm 1972, hàng trăm ngàn đồng bào Quảng Trị
phải bồng bế, gồng gánh nhau chạy vào Huế và Đà Nẵng, những quận
Đông Hà, Gio Linh và các khu vực chung quanh Cổ thành Quảng Trị
đă trở thành những băi chiến kinh hồn nhưng trong nhật kư ngày 4
tháng 4 năm 1972, anh hănh diện chép lại bản tin của đài phát
thanh Hà Nội: “Đài phát thanh truyền đi tin chiến thắng rực
rỡ của tiền tuyến ở mặt trận Trị-Thiên-Huế ở đường 9, Cam Lộ,
Gio Linh, đă diệt 5.500 tên địch; 10 vạn đồng bào nổi dậy - Đài
phát thanh tiếng nói Việt Nam đă phải mở thêm các buổi phát
thanh để truyền tin chiến thắng của miền Nam anh hùng.”
Anh Thạc tin một cách chân thành rằng những tin tức đó là thật.
Nếu có một nhà sưu tầm nào thu thập các bản tin chiến sự của đài
phát thanh Hà Nội trong suốt cuộc chiến và cộng lại, tổng số tổn
thất của quân đội VNCH ít nhất cũng bằng nửa dân số miền Nam.
Trong nền giáo dục CS, anh Thạc không phải mất công t́m kiếm câu
trả lời cho những thắc mắc của ḿnh v́ Đảng đă có sẵn các câu
trả lời cần thiết cho suốt cuộc đời anh. Trong nhật kư ngày 12
tháng 1 năm 1972, khi ưu tư về tương lai, anh Thạc trích ngay
câu nói của Lê Duẩn: “Thanh niên hăy lấy sự hy sinh phấn đấu
cho cách mạng làm hạnh phúc cao cả nhất của đời ḿnh, đừng để
cho t́nh cảm cách mạng nguội lạnh v́ những tính toán được mất
cho cá nhân.” Không có t́nh cảm riêng tư nào cả, cách mạng
là hạnh phúc cao cả nhất. Anh viết câu nói của Lê Duẩn vào nhật
kư một cách trang trọng tưởng chừng y đang ngồi trước mặt và sau
đó yên tâm đi tiếp, không thắc mắc ǵ thêm.
Dù trong bất cứ một hoàn cảnh nào, cuộc tranh đấu giữa thiện và
ác diễn ra không ngừng trong mỗi con người cũng như trên phạm vi
xă hội. Cũng có lúc các đặc tính nhân bản, tự do bẩm sinh trong
con người anh đứng lên chống lại các yếu tố ác độc, nô dịch của
ư thức hệ CS đang dồn dập tấn công. Trong nhật kư ngày 27 tháng
4, anh viết những câu đau xót cho cuộc đời ḿnh: “Phải hết
sức trấn tĩnh, tôi mới không xé hoặc không đốt đi cuốn Nhật kư
này. Trời ơi! Chưa bao giờ tôi chán nản và thất vọng như buổi
sáng nay, như ngày hôm nay cả. Tôi không giải thích ra sao nữa.
Người ta giải thích được cần phải trấn tĩnh mới hiểu lư do và
lung tung. C̣n tôi rời ră tôi chán nản với hết thảy mọi điều,
mọi thứ trên trái đất này. Phải, tôi hiểu rằng, với một người
con trai đang khoẻ mạnh, đang sung sức, đang ở giữa mùa xuân của
đời ḿnh th́ buồn nản, th́ chán đời là một điều xấu xa và không
thể nào tưởng tượng được - Người ta đă chửi rủa biết bao lần
những thanh niên như thế - Nhưng tôi biết làm sao khi chính bản
thân tôi đang buồn nản đến tận cùng này. Tôi lê gót suốt con
đường ṃn - Con đường ṃn như chính cuộc đời tôi đang ṃn mỏi đi
đây - Tôi ngồi bệt xuống bờ sông, con sông cạn đang rút nước.
Tôi vốc bùn và cát ở dưới ḷng sông, và qua kẽ ngón tay tôi nó
rớt xuống, rớt xuống. Tôi muốn khóc, khóc với ḍng sông.”
“Tôi muốn khóc, khóc với ḍng sông”,
khóc cho anh, cho thế hệ anh đang lê gót trên con đường ṃn.
Nhưng thiện tính bẩm sinh trong con người anh Thạc mong manh như
một nhánh tre non giữa cuồng phong thù hận. Anh bị tiêm thuốc
độc vào người từ thuở mới sinh ra, biết đọc, biết viết cho đến
tuổi hai mươi. Những vi trùng Pêlêvôi (Người mẹ cầm súng),
Marétxép (Anh hùng phi công Marétxép) đă mê hoặc anh bằng
một loại chủ nghĩa anh hùng không tưởng. Thiện tính trong anh
không chống đỡ nổi, đă gục xuống, đầu hàng để rồi vài hôm sau
trong nhật kư ngày 7 tháng 5 năm 1972 anh lại mơ được “Đảng
tin và trao cho những nhiệm vụ nặng nề.” Anh Thạc không thể
thoát ra khỏi được quỹ đạo của bộ máy tuyên truyền CS tinh vi.
Mà cũng ít người thoát ra được.
Trong số 8 người bạn học đi thi giỏi văn toàn miền Bắc, phần lớn
được đi học nước ngoài, riêng anh và một người bạn khác phải đi
bộ đội. Trong nhật kư ngày 24 tháng 5 năm 1972, anh tự hỏi chính
ḿnh: “Thạc c̣n buồn không? Có c̣n buồn bă v́ những năm tháng
phải xa trường đại học, v́ không được ra nước ngoài học tập - V́
các bạn Thạc, người đi đây, người đi đó, sống êm ả, sung tức với
tập giáo tŕnh. Ngày mai, các bạn về, các bạn có kiến thức, các
bạn là kỹ sư, là các nhà bác học, c̣n Thạc sẽ chỉ là một con
người b́nh thường nhất, nếu chiến tranh không cướp đi của Thạc
một bàn chân, một bàn tay...” Anh không thể tự trả lời. Tuy
nhiên, đoạn nhật kư trong cùng ngày đă giải thích lư do một học
sinh hạng A1, giỏi toàn diện và từng đoạt giải giỏi văn nhất
miền Bắc như anh lại không được đi học nước ngoài: “Lại nói
tiếp về những trang lư lịch - Người ta bắt khai tỉ mỉ hết sức -
Nào là ông, bà, cô d́, chú bác. Làm sao mà nhớ được cơ chứ -
Ngay cả cái tên ḿnh cũng khó mà nhớ được nữa là phải nhớ cả
ngày tháng năm sinh. Nhớ cả sinh hoạt vật chất và chính trị của
các cụ ấy từ ngày ḿnh có lẽ chưa có một chút ǵ trên trái đất
này, ngay cả đó là những tế bào đầu tiên đơn sơ nhất!”
Anh Thạc nhiều tài năng đă chết một cách oan uổng chỉ v́ như anh
viết “vết đen của quá khứ gia đ́nh đè trĩu hai vai”. Cha
mẹ anh chẳng phải phạm tội cướp của giết người ǵ cả nhưng từng
có xưởng dệt, mướn thợ làm công và như thế trên quan điểm
Marx-Lenin, anh thuộc thành phần tư sản bóc lột, tội ác.
Anh Thạc chưa được kết nạp vào đảng và cũng chưa được làm đối
tượng đảng. Anh viết trong nhật kư ngày 7 tháng 5 năm 1972: “Chao
ôi, bao nhiêu lần ḿnh ao ước có được hạnh phúc xa vời ấy, được
Đảng tin và trao cho những nhiệm vụ nặng nề. Có người sẽ bảo:
Th́ đấy, anh được đi bộ đội đó th́ sao? Chẳng lẽ anh không được
Đảng tin cậy mà lại trao nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc à? Không, đừng
ai nói thế! Chuyện ǵ cũng có điều tế nhị của nó. Nói ra ư,
không khéo th́ trở thành phản cách mạng mất. Có đi trong quân
đội mới cảm thấy nỗi khổ của những người không phải Đỏ hoàn
toàn.” Trong cùng ngày, anh viết: “Cứ mỗi lần khai lư
lịch, ḿnh lại buồn, buồn tận sâu xa.”
Anh Thạc nhắc đi nhắc lại đến mười một lần hai chữ “lư lịch”
trong nhật kư và điều đó cho thấy “vết đen” lư lịch ám ảnh anh
sâu đậm đến mức nào. Anh khổ tâm, đau đớn v́ lư lịch gốc tư sản
của cha mẹ anh trước đây cũng là điều dễ hiểu. Trong xă hội miền
Bắc, Đảng là chiếc thang duy nhất đại diện cho quyền lực và
quyền lợi mà mọi người phải chen nhau, đạp nhau và ngay cả giết
nhau để được trèo lên cao.
Chủ nghĩa CS và chủ nghĩa Quốc Xă Đức giống nhau một điểm quan
trọng, đó là sự tin tưởng vào mỗi cá nhân đặt cơ sở trên lư
lịch. Chính trị lư lịch (Bio-politics) không chỉ bảo đảm tính kế
tục về ḍng giống nhưng c̣n bảo đảm mục đích của chế độ được
hoàn thành trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Chính Adolf Hitler,
đối thủ hàng đầu của Stalin, đă từng bày tỏ sự thán phục dành
cho Stalin và ca ngợi y trong việc làm thuần khiết hóa đảng CS
Liên Xô qua việc loại bỏ các mầm mống Do Thái như Leon Trotsky,
Grigory Zinoviev, Lev Kamenev, Karl Radek khỏi nội bộ lănh đạo
đảng. Stalin phê b́nh quan điểm chủng tộc Aryan siêu việt của
Hitler và gọi đó là Phát Xít nhưng chính y lại biện hộ cho chính
trị lư lịch dựa trên giai cấp xă hội.
Anh Thạc có yêu nước không? Tôi tin là có. Không những anh Thạc
mà rất đông tuổi trẻ miền Bắc t́nh nguyện lên đường “giải phóng
miền Nam” cũng v́ ḷng yêu nước. Nhưng t́nh yêu nước của các anh
không phát xuất từ trái tim trong sáng của tuổi hai mươi mà được
dạy để yêu nước theo quan điểm giai cấp. Miền Nam mà các anh
được Đảng mô tả là địa ngục trần gian chứ không phải là những
cánh đồng bát ngát, những vườn cây sai trái, những ḍng sông
nhuộm đỏ phù sa. Người dân miền Nam mà Đảng vẽ trong nhận thức
các anh là những người đang rên siết trong gông xiềng “Mỹ
Ngụy” chứ không phải là mấy chục triệu người chơn chất hiền
ḥa chỉ mong được yên ổn để xây dựng cuộc sống mới sau gần một
thế kỷ bị thực dân đô hộ. Cũng trong nhật kư ngày 24 tháng 5,
anh Thạc tin rằng Sài G̣n ngày đó là một “Sài G̣n tăm tối,
dưới ách quân thù”.
Anh Thạc hiểu thế nào là tổ quốc? Trong bài thi học sinh giỏi
văn miền Bắc in ở phần cuối của nhật kư, anh phân tích tổ quốc:
“Được mang ng̣i bút của ḿnh phục vụ Tổ Quốc, nhằm giáo dục
lập trường và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho nhân dân ta,
các nhà thơ ta, bằng nghệ thuật hiện thực xă hội chủ nghĩa, đă
tái hiện cuộc sống muôn màu, muôn vẻ của dân tộc ta đang chiến
đấu theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, và dưới ánh sáng
đường lối văn nghệ, chính trị của Đảng” hay trong nhật kư
ngày 7 tháng 1 năm 1972, anh viết “Tổ quốc vẫn dựng xây và
đánh giặc hai ḥn gạch vẫn gắn chặt vào nhau nhờ nhiệt t́nh của
con người cộng sản.”
Tổ quốc gắn liền với “lập trường và nhân sinh quan cộng sản
chủ nghĩa” hay “gắn chặt vào nhau nhờ nhiệt t́nh của con
người cộng sản” như anh viết nằm bên sông Volga, sông Hoàng
Hà chứ không phải sông Hồng, sông Cửu. Đoạn văn anh viết được
trích gần như nguyên văn từ các đề cương văn hóa, nghị quyết,
bài giảng kinh tế chính trị ở trường mà anh đă nhập tâm. Không
phải chỉ một ḿnh anh Nguyễn Văn Thạc mà phần lớn nhà văn miền
Bắc không ít th́ nhiều đều phạm tội đạo văn của Đảng.
Anh Thạc không phân biệt được sự khác nhau, nói chi đến mâu
thuẫn, giữa Tổ quốc và Đảng, giữa ư thức dân tộc nhân bản và chủ
nghĩa Marx-Lenin độc tài toàn trị. Đọc bài văn đoạt giải nhất
này để thấy bộ máy tuyên truyền của Đảng không những có khả năng
điều khiển hành động mà c̣n có thể sai khiến cả nhận thức của
anh. Trong nhật kư ngày 15 tháng 11 năm 1971 anh viết: “Thằng
Mỹ, nó thế nào? Trời ơi, sao lâu quá. Bây giờ cái khao khát nhất
của ta - cái day dứt nhất trong ta là khi nào được vào miền Nam,
vào Huế, Sài G̣n - xọc lê vào thỏi tim đen thủi của quân thù”.
Anh không biết “Thằng Mỹ, nó thế nào” và vẫn muốn “xọc lê vào
thỏi tim đen thủi” của nó. Khủng khiếp thật. Ai dạy anh viết
những câu sắc máu vượt qua tuổi tác của anh như thế, chắc chắn
không phải cha mẹ anh nhưng từ bộ máy tuyên truyền của Đảng.
Anh Thạc là nạn nhân của một chính sách thuần hóa tinh vi. Mục
tiêu hàng đầu của tuyên truyền tẩy năo CS là đào tạo những con
người biết tuân phục. Thuần khiết toàn xă hội qua sách lược
trồng người là mục đích tối hậu của nền giáo dục CS. Đó là lư do
tại sao các lănh tụ CS thích hôn nhi đồng. Từ Lenin, Stalin, Mao
Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành cho đến Fidel Castro,
Pol Pot đều thích hôn nhi đồng. H́nh ảnh “hiền từ” của họ bên
cạnh nhi đồng là h́nh ảnh phổ biến nhất tại các nước CS. Nhà thơ
Nguyễn Chí Thiện tả cảnh “hôn nhi đồng” tại miền Bắc
trong bài thơ ông viết năm 1970:
Bác Hồ rồi lại bác Tôn
Cả hai đều thích ôm hôn nhi đồng
Nước da hai bác màu hồng
Nước da các cháu nhi đồng màu xanh
Giữa hai cái mặt bành bành
Những khăn quàng đỏ bay quanh cổ c̣.
Bộ máy tuyên truyền của CSVN là thành quả được “vận dụng một
cách sáng tạo” từ cả hai hệ thống tuyên truyền CS Liên Xô và
Trung Cộng nên không lạ ǵ họ đă lừa gạt bao nhiêu thế hệ thanh
niên miền Bắc một cách dễ dàng. Đọc lại nhật kư của anh Nguyễn
Văn Thạc để thấy, CSVN vào được Sài G̣n trong ngày 30 tháng 4
năm 1975 bằng nhiều phương tiện nhưng hữu hiệu nhất là phương
tiện tuyên truyền.
Trang nhật kư cuối cùng ghi ngày 25 tháng 5 năm 1972, anh Thạc
viết: “Kẻ thù không cho tôi ở lại - Phải đi - Tôi sẽ gởi về
cuốn Nhật kư này, khi nào trở lại, khi nào trở lại tôi sẽ viết
nốt những ǵ lớn lao mà tôi đă trải qua từ khi xa nó, xa cuốn
Nhật kư thân yêu đầu tiên của đời lính. Ừ, nếu như tôi không trở
lại - Ai sẽ thay tôi viết tiếp những ḍng này? Tôi chỉ ước ao
rằng, ngày mai, những trang giấy c̣n lại đằng sau sẽ toàn là
những ḍng vui vẻ và đông đúc. Đừng để trống trải và bí ẩn như
những trang giấy này.”
Anh Thạc không trở lại. Nhật kư ngày 3 tháng 6 năm 1972 chỉ là
địa chỉ “Ngă ba đồng lộc”. Hết. Những trang giấy c̣n lại
của cuốn nhật kư cũng không phải là những ḍng vui vẻ đông đúc
như anh muốn. Anh ngă xuống ở Quảng Trị và trên vùng đất đó, máu
của nhiều thanh niên miền Nam cũng đă đổ xuống để giành lại Cổ
thành Đinh Công Tráng, giành lại Cam Lộ, Đông Hà, Triệu Phong và
những vùng đất miền Nam thân yêu khác.
Anh Nguyễn Văn Thạc đă chết. Hàng triệu thanh niên miền Bắc đă
chết. Hàng trăm ngàn cựu thương binh miền Bắc may mắn hơn nhưng
phải sống phần đời c̣n lại trong khó khăn túng thiếu với số tiền
phụ cấp chỉ vỏn vẹn sáu trăm ngàn và nhiều nhất là ba triệu đồng
một tháng cho cả gia đ́nh. Tất cả những mất mát và chịu đựng đó
chỉ để hoàn thành mục tiêu CS hóa Việt Nam như đă xác định từ
cương lĩnh đảng CSVN 1930, cương lĩnh 1935 và lần nữa khẳng định
trong cương lĩnh 1991: “Mục đích của Đảng là xây dựng nước
Việt Nam dân chủ, giàu mạnh theo con đường xă hội chủ nghĩa và
cuối cùng là thực hiện lư tưởng cộng sản chủ nghĩa”. Sau 39
năm, ngoại trừ những kẻ bị tẩy năo, một người có nhận thức và
theo dơi thời cuộc đều đă nhận ra khẩu hiệu “chống Mỹ cứu
nước” chỉ là một chiêu bài và “độc lập, tự do, hạnh phúc”
chỉ là chiếc bảnh vẽ.
Xương máu của nhiều thế hệ thanh niên miền Bắc đổ xuống chỉ để
hôm nay mọc lên những biệt thự nguy nga, sang trọng của các chủ
tịch, bí thư, ủy viên trung ương, ủy viên bộ chính trị, những kẻ
sống xa hoa trên một đất nước độc tài, tham nhũng, lạc hậu và bị
phân hóa đến tận cùng. Đảng CSVN nợ những người đă chết và c̣n
sống trong tật nguyền đau đớn quá nhiều thứ nhưng món nợ lớn
nhất mà Đảng không thể nào trả nỗi, đó là, món nợ tuổi hai mươi.
Trần
Trung Đạo
danlambaovn.blogspot.com