NHỮNG SAI TRÁI CỦA TRẦN THU DUNG
tác giả quyển "Đạo Cao Đài & Victor Hugo"
LTS: Chúng
tôi vừa nhận được được thư của tác giả B́nh Thới, gởi kèm với
tiểu luận ĐẠO CAO ĐÀI VÀ TUỔI TRẺ của tác giả Cao Đài Trẻ b́nh
luận về tác phẩm Đạo Cao Đài & Victor Hugo của Trần Thu Dung,
như sau:
Thánh Địa, 12-03-Bính Thân
Kính Hiền Huynh Huỳnh Mười,
Tôi là B́nh Thới kính gởi đôi hàng đến Hiền Huynh:
Tác phẩm ĐẠO CAO ĐÀI & VICTOR HUGO do Bà Trần Thu Dung
xuất bản bôi nhọ Cao Đài đă lâu. Tuổi trẻ Cao Đài lúc đó rất
phẫn nộ về sự nhục mạ và bôi nhọ Đạo Cao Đài. Nên năm 2011 có
một bạn trẻ Cao Đài viết tiểu luận : ĐẠO CAO ĐÀI & TUỔI TRẺ với
bút hiệu CAO ĐÀI TRẺ để phản đối và đính chính lại.
Đến nay th́ Tiến Sĩ Phạm Trọng Chánh lại một lần nữa viết
bài ủng hộ tác phẩm này của Bà Trần Thu Dung để tô thêm sự nhục
mạ Cao Đài. http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/doc-sach-dao-cao-dai-va-victor-hugo.html
V́ vậy tôi thấy rất bất b́nh việc giới trí thức lại không
tiếc lời nói xấu Đạo Cao Đài. Tôi có đăng lại bài Tiểu Luận của
tác giả CAO ĐÀI TRẺ với sự đồng ư của tác giả ấy trên trang
riêng của tôi. Bạn ấy cũng vui vẻ nếu được trang Hương Đạo
Florida phổ biến.
Nghĩ rằng việc bảo vệ danh dự Đạo là nhiệm vụ chung của
của mọi tín đồ. nên tôi gởi đến Hương Đạo Florida file word đính
kèm Tiểu Luận ĐẠO CAO ĐÀI & TUỔI TRẺ (trong đó có ư kiến giới
thiệu của tôi) để nghiên cứu và giao bản quyền cho Hương Đạo
Florida tùy nghi sử dụng.
Nay kính.
Cảm ơn hiền huynh B́nh Thới và xin trân trọng giới thiệu
đến Đồng Đạo khắp nơi tiểu luận ĐẠO CAO ĐÀI & TUỔI TRẺ đầy tâm
huyết của tác giả CAO ĐÀI TRẺ.
***
NHỮNG SAI TRÁI CỦA
của TRẦN THU DUNG
Tác giả quyển sách
ĐẠO CAO ĐÀI và VICTOR HUGO
“ĐẠO
CAO ĐÀI và VICTOR HUGO” Là quyển sách với nhiều sai trái có
tính cách bôi nhọ và lăng mạ Đạo Cao Đài, cuối cùng tác giả đưa
ra lời kêu gọi đại gian ác để: Khích động tuổi trẻ Cao Đài phản
Thầy! Phản Đạo!
Tác phẩm
này được Tiến Sĩ Phạm
Trọng Chánh ủng hộ theo đường link như dưới đây:
http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/doc-sach-dao-cao-dai-va-victor-hugo.html
V́ bất
đắc dĩ nên tôi mới lên tiếng để đính chính những điều sai trái
của hai tác giả là những người có học vị cao - Tiến Sĩ. Tuy lời
lẽ có thô kệch
nhưng tấm ḷng th́ bao la rộng lượng, mục đích giúp cho những ai
đă hiểu sai Đạo Cao Đài qua bài viết đẩy ác ư của Trần Thu Dung
được Tiến Sĩ Phạm Trọng Chánh vổ tay ủng hộ.
Sau đây
tôi xin đăng lại tiểu luận ngắn của tác giả kư tên là CAO ĐÀI
TRẺ được viết vào năm 2011 để trả lời cho Bà Tiến Sĩ Trần Thu
Dung khi bà cho ra đời quyển sách, và nay là Tiến Sĩ
Phạm Trọng Chánh,
đang sống tại Paris, Pháp Quốc.
B̀NH THỚI
===========================
Tiểu luận có tựa đề:
ĐẠO CAO ĐÀI VÀ TUỔI TRẺ
Suy nghĩ sau khi đọc
Tác phẩm “ĐẠO CAO ĐÀI và VICTOR
HUGO” của Tiến Sĩ TRẦN THU DUNG
Do Nhà
xuất bản THỜI ĐẠI Trung Tâm Văn Hóa Đông Tây.
LỜI TỰA
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ (ĐĐTKPĐ)
là một mối Đạo lớn do chính Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế làm Giáo
Chủ khai sáng năm Bính Dần - 1926 tại miền nam Việt Nam. Người
tín đồ ĐĐTKPĐ gọi là Đạo của Đức Cao Đài, sau nầy thành thói
quen nên gọi ngắn lại là Đạo Cao Đài.
Tôn chỉ của ĐĐTKPĐ là Qui nguyên
Tam Giáo và Hiệp Nhứt Ngũ Chi. V́ vậy mà giáo thuyết của Đạo Cao
Đài phù hợp với tất cả mọi sắc dân trên thế giới. Phương Đông
học Đạo Cao Đài được, phương Tây học Đạo Cao Đài cũng được; tầng
lớp trí thức học Đạo Cao Đài được, tầng lớp b́nh dân học Đạo Cao
Đài cũng được; giai cấp thượng lưu học Đạo Cao Đài được, giai
cấp thứ dân học Đạo Cao Đài cũng đươc. v.v. Đạo Cao Đài phổ
thông phù hợp với mọi người ở nhiều tầng lớp và tŕnh độ khác
nhau trên thế giới.
V́ vậy mà sau khi Đạo Cao Đài
được khai sáng -1926- th́ có đông đảo người nhập môn cầu Đạo.
“…Đó cũng là một
lư do giải thích sự thành công phát triển nhanh chóng của Đạo,
mặc dù chỉ h́nh thành năm 1926, nhưng khoảng năm 1940 đạo Cao
Đài có gần hai triệu tín đồ…”
(trang 47, đoạn 1 ĐCĐ&VH
(Đạo Cao Đài & Victor hugo))
Đạo Cao Đài có cả một Hội Thánh
đặc trách truyền Đạo phổ độ người nước ngoài có tên gọi là
“Hội Thánh Ngoại Giáo” do Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn
Nhơn là Chưởng Giáo.
Với nhiều các tầng lớp trong xă
hội, cả trong và ngoài nước đều có mặt nhập môn vào Đạo Cao Đài.
Nếu cho là Đạo Cao Đài thành lập nhằm lừa đảo chúng sanh như một
số tác giả đă viết th́ đó là một suy nghĩ và hành động không
thiện cảm. Những nhà trí thức nhập môn vào Đạo Cao Đài thời ấy
không lẽ không nhận thấy mà để cho bị gạt gẫm tuân theo?
Một dẫn chứng thuyết phục nhứt
là nếu khai Đạo nhắm vào danh lợi quyền th́ những Chức Sắc tiền
khai Đại Đạo đă hưởng được lợi ích ǵ? Ông Hội Đồng Lê Văn
Trung, đă bỏ hết công danh sự nghiệp và quyền hành đang sáng
chói của ḿnh để lo cho Đạo, các vị Chức Sắc lớn khác như Phạm
Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang đă hưởng được ǵ khi phải
bỏ hết miếng ngon cao lương mỹ vị để dùng chay lạt tương rau
nuôi sống bản thân? Trường chay là tiêu chuẩn cao nhứt trong Đại
Đạo.
Thực ra, đây là những ngón đ̣n
của giới văn sĩ lợi dụng sự tự do mà phát biểu ư kiến phiến diện
cá nhân.
Bà Trần Thu Dung đă xác nhận:
“Bất kỳ Đạo nào du nhập hay mới
phát sinh ở Việt Nam đều không tránh khỏi sự phê phán của những
người không đồng quan niệm. Đạo nào cũng gặp những thăng trầm
trong quá tŕnh tiến hóa của lịch sử..”
(trang 163,
ĐCĐ&VH)
Đối chiếu thực tế, giả sử trên
thế giới không có tôn giáo nào cả; lúc đó thế giới không có
chuẩn mực thiện và ác, v́ vậy con người có thể dừng lại sự phấn
đấu vươn lên đến điều chân thiện mỹ mà chỉ thu ḿnh trong cuộc
sống không vi phạm luật pháp quốc gia là đủ. Đó là trường hợp
của những người có lương tâm, những người khác sẽ không ngần
ngại làm điều ác với yêu cầu lách né bằng mọi thủ đoạn như thế
nào cho luật pháp không phát hiện là được. nếu cuộc sống trong
xă hội diễn ra theo chiều hướng đó th́ thật sự là một xă hội
khủng khiếp cho con người!
Trường hợp thứ nh́: Các tôn giáo
hiện hữu lúc ấy (thập niên 20 thế kỷ 20) vẫn đang dạy bảo nhơn
sanh, nhưng v́ quá lâu nên cách thức tu hành có những điểm phù
hợp với người này lại không phù hợp với người khác, nơi này với
nơi khác. Tuổi trẻ thanh niên chúng tôi thời đại hiện nay cũng
vậy. Chúng tôi không thể xuất gia bỏ nhà cửa cha mẹ vào chùa,
không thể ngồi lim dim thiền định, cũng không thể ngồi chờ người
khác cứu rỗi tha thứ tội lỗi của ḿnh mà không có một nổ lực ăn
năn sám hối nào, và chúng tôi cũng không nghe theo lời người ta
nói giết người càng nhiều càng mau được lên thiên đàng v.v.
Tôi cảm ơn Đức Cao Đài Ngọc Đế
đă kịp thời khai sáng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cho nhơn loại. Như
vậy chúng tôi có được một cái phao cứu sinh rất lớn trong cuộc
sống tinh thần. Chúng tôi cũng cảm ơn các vị tiền bối người Việt
Nam đă dày công khổ cực dựng nên một nền Đại Đạo. Từ lời dạy của
Đấng vô vi ra thành h́nh thiệt tướng, bằng những tấm gương chân
thật thuần khiết. Các bậc tiền bối đă cảm hóa được ḷng chúng
tôi cùng với những lư thuyết giáo điều đầy t́nh Bác Ái và Công
B́nh.
Từ sự cảm hóa đó kích thích tôi t́m hiểu sâu xa thêm mới
hiểu được phần nào sự cao cả của Đạo Cao Đài.
Nếu phải bỏ Đạo Cao Đài để được
đổi lại bằng một hứa hẹn danh vọng, quyền lợi khác th́ tôi sẽ
mạnh dạn từ chối (cái hữu h́nh hữu hoại ấy).
Danh vọng và sự nghiệp,
tôi có thể tạo dựng được bằng trí tuệ và đôi tay của
ḿnh. Nhưng Luật Thương yêu và Quyền Công Chánh th́ không thể
t́m nơi đâu mà có nếu không học Đạo của Đấng Cao Đài Ngọc Đế.
Với những ư tưởng trong sáng và
thực tế đó, tôi cho rằng những tác giả xưa và nay viết xấu để
bôi nhọ Đạo Cao Đài là những người đi ngược lại với thời đại
“Công Bằng - Dân Chủ - Văn Minh” và là kẻ thù của CHÂN – THIỆN –
MỸ.
Tôi đă thấy những điều đó nơi
tác phẩm “ĐẠO CAO ĐÀI & VICTOR HUGO” của tác giả Trần thu Dung.
Tôi mạn phép ghi lại những điều bất cập đă thấy trong tác phẩm
ấy của Trần Thu Dung để dư luận rộng đường nhận xét. Mong tác
giả Trần Thu Dung thông
cảm nếu có điều chi không hài ḷng.
Nay Kính
Lời Cảm Ơn
:
Tôi một
thanh niên trẻ sanh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước tự do
độc lập trong hai thập kỷ cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21.
Thời đại
mà chúng tôi đang sống là thời đại bùng nổ thông tin. Chúng tôi
có thể không cần phải đi đâu cả mà vẫn biết được cả thế giới.
Không có một sự dối trá nào có thể che giấu chúng tôi. Hay chí
(chỉ) ít chúng tôi cũng có được một sự độc lập khách quan
trong việc tin tưởng những điều nghe thấy hay đọc được.
Không cần
phải ở bên nhau hay ở cùng thời đại ta mới có được những tấm
h́nh chụp chung gia đ́nh. Ngược lại với một bức h́nh chồng hay
vợ ḿnh đứng chung với người khác phái khác chưa chắc là họ đă
ngoại t́nh hay phản bội ḿnh, khoa học đă lắp ghép được tất cả.
Nếu vội tin những tấm ảnh đó, vô t́nh ta rơi vào cái bẫy ly gián
của những ư đồ xấu mà một ai đó đă cố t́nh chia rẽ ta, điều nầy
có hại cho ta mà ta không hề hay biết, c̣n người hại được ta th́
vui cười hớn hở. Thanh niên chúng tôi không dễ mắc bẫy họ đâu.
Trong tinh thần đó tôi muốn nói đến tác phẩm của Bà Trần Thu
Dung, như sau:
Hôm nay,
một người bạn đă đưa cho tôi quyển sách : ĐẠO CAO ĐÀI & VICTOR
HUGO của tác giả Trần Thu Dung (do
nhà xuất bản Thời Đại Trung Tâm Văn Hóa Ngôn Ngữ Đông Tây do
Giấy đăng kư KHXB số 869-2010/CXB/06-38/TĐ, cấp ngày 19-11-2010.
In xong nộp lưu chiểu Quư I năm 2011).
Sau khi
đọc xong, tôi xin có một số cảm nhận như sau:
1-/ Cảm
ơn Bà Trần Thu Dung đă viết quyển sách trên, Bà đă cung cấp cho
xă hội những điều mới lạ đă và đang xảy ra trong đất nước Việt
Nam với những con người và sự việc thật. Công tŕnh của Bà
nghiên cứu rất công phu. Chúng tôi rất cảm ơn Bà đă nhắm tới thế
hệ trẻ chúng tôi khi viết tập nghiên cứu khảo luận nầy.
Sách Bà
viết là một tư liệu làm bằng chứng để giúp chúng tôi hiểu được
sự thật và ư muốn của Bà Trần Thu Dung và Bà đang viết giúp cho
ai?
2-/ Chúng
tôi cũng cảm ơn Bà Trần Thu Dung đă nêu lên được những ư chính
và cơ bản mà những nhà sáng lập Đạo Cao Đài mong muốn, như :
-“Mặc dù hằng ngh́n năm Bắc
thuộc, ảnh hưởng
tôn giáo đến từ nơi khác như đạo Phật đến từ Ấn Độ, đạo Khổng,
đạo Lăo từ Trung Quốc nhưng ba tín ngưởng bản địa trên vẫn được
bảo tồn và ḥa quyện vào các tôn giáo ngoại lai tạo nên những
nét văn hóa riêng của Việt Nam. Điều nầy chứng minh sức mạnh
tinh thần của những tín ngưỡng dân gian Việt Nam “
(trang 19 Đạo Cao Đài
&Victor Hugo)
Tuy
nhiên, bên cạnh những ưu điểm nhỏ nhoi đó, là hàng loạt những
vấn đề nhức nhối, vu khống phiến diện và xuyển tạc ĐẠO CAO ĐÀI.
Bà Trần
Thu Dung nói:
-.”Sự phụ thuộc hoàn toàn vào
sức mạnh huyền bí của thiên nhiên khiến cho con người tin vào
thế lực siêu h́nh của Ông Trời. Ông Trời quyết đinh tất cả…”.(trang
20 ĐCĐ&V.H).
Điều nầy
không có mặt trong Đạo Cao Đài. Xin trích vài dẫn chứng sau đây:
1 –
“Là Đại Từ Phụ, Thượng Đế
không bao giờ hành phạt chúng sanh toàn là con cái yêu đương của
Ngài. Nhưng v́ phép công b́nh, Thượng Đế lập luật "Nhơn quả" làm
cân thưởng phạt thiêng liêng. Chúng sanh do chỗ hành động ḿnh
mà rước lấy họa phước”.
(THIÊN ĐẠO-
trang 181
NXB Tôn Giáo)
2 – “Thần, Thánh, Tiên, Phật
trước vốn là người phàm, nhờ tu mà đắc quả
(1). Vậy th́,
tất cả phàm nhơn, ai cũng có thể làm Tiên, Phật, nếu biết tu,
nhứt là gặp "Tam Kỳ Phổ Độ", ban hành luật Đại ân xá, chúng sanh
được may mắn "tu nhứt kiếp, ngộ nhứt thời."
(THIÊN ĐẠO-
trang 181-182
NXB Tôn Giáo)
3– “Con người thọ sanh tại thế
đều có số mạng định đoạt do nghiệp duyên của ḿnh đă tạo ra
trong kiếp trước. Cho nên người biết đạo bao giờ cũng an phận
tùy duyên, chẳng v́ nghèo túng mà trễ nải việc đạo.
Nếu con người biết chuyên làm
lành lánh dữ cùng tu âm chất trong kiếp đương sanh, th́ có thể
chuyển họa ra phước. Định mạng là Trời mà lập mạng là Ta vậy”.
(THIÊN ĐẠO- trang
183 NXB Tôn Giáo)
Vậy, nếu Bà Trần Thu Dung bỏ qua
ư niệm xuyên tạc, vạch lá t́m sâu, có tư tưởng kỳ thị chủ quan
th́ Bà sẽ thấy Đạo Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh của Đức Ngọc Hoàng
Thượng Đế là một Tôn Giáo tiên tiến vượt thời gian và không
gian, một giáo thuyết đi trước khoa học, không như cách hiểu
thông thường khác bà đă t́m nơi nào đó rồi gán cho Đạo Cao Đài
Toà Thánh Tây Ninh của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế
cũng có những đặc tính giống như vây.
Thầy
không v́ ghét mà h́nh phạt cũng không v́ thương mà ẵm bồng đưa
lên (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển (TNHT)). Từ năm 1926 thế kỷ trước Đạo
Cao Đài đă mạnh dạn tiên phong cải tạo những tín ngưỡng mê tín
của dân gian rồi!
- “Khổng Tử đă đưa học thuyết về
tư tưởng đẳng cấp rất nghiêm ngặt phù hợp với lợi ích của giai
cấp thống trị và có lợi cho việc ổn định xă hội lúc bấy giờ nên
nó nhanh chóng được đề cao. Khổng Tử nhấn mạnh đến vấn đề đạo
đức, chữ trung ” (trang 22 ĐCĐ&V.H)
“Nho giáo khi đến Việt Nam đă ca
ngợi và kết hợp với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên để giáo dục
nghĩa vụ đạo đức con người trong xă hội và gia đ́nh.”(trang 23
ĐCĐ&V.H).
Hai ư này là nhận định
đúng đắn của bà Trần Thu Dung. Truyền thống “TRUNG HIẾU” này cho
đến ngày nay nhà nước Việt Nam XHCN vẫn c̣n duy tŕ :
“Quân đội ta TRUNG với
đảng, HIẾU với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, …” khẩu
hiệu của Quân đội nhân dân Việt Nam đă nêu rơ.
-“..sự xung khắc giữa đạo truyền
thống và đạo thiên chúa không hề mất đi..”
(trang 26 ĐCĐ&VH) :
Điều này
chỉ đúng khi chưa có Đạo Cao Đài, từ năm 1926 Đạo Cao Đài được
khai sáng th́ khái niệm xung khắc đó của Bà Trần Thu Dung
đă biến mất với tôn chỉ
Qui Tam Giáo - Hiệp Ngũ Chi mà Đức Thượng Đế đă dạy. Nói chính
xác hơn Đạo Cao Đài có công kéo các Tôn Giáo xích lại gần nhau.
-“Nhiều giáo phái ra đời để che
giấu sự hoạt động chính trị nhằm chống chính quyền thực
dân…..Đạo cao Đài cũng là một tổ chức ra đời trong khuynh hướng
đó…” (trang 26 ĐCĐ&VH)
Câu
này Bà Trần Thu Dung (TTD)
có thể đă lấy các đặc điểm của các tôn giáo khác đi gán cho Đạo
Cao Đài chăng?:
“Đạo
Nghị Định thứ năm -Điều thứ nhứt:
- Buộc cả Chức Sắc đă thọ phong phải phế Đời hành Đạo.”
Trước khi
vào Đạo Cao Đài người tín hữu có thể nằm trong bất cứ giai cấp
hay tầng lớp nào trong xă hội. Sau khi nhập môn cầu đạo họ bỏ
lại các phẩm tước địa vị ngoài đời để chỉ thuần túy tu hành
trong cửa Đạo theo luật Đạo.
Nhờ những
nhận xét này làm cho chúng tôi thấy tự hào về một nền quốc
đạo-Đạo khai sáng trong nước Việt Nam do chính người Việt Nam-
để phổ độ cả thế giới đi vào con đường tận thiện tận mỹ. Nếu
không có các thế lực chối bỏ toan diệt Đạo hoặc cố t́nh lèo lái
Đạo theo hướng khác (canh cải) th́
Cao Đài sẽ là một Tôn Giáo phù hợp nhứt cho cả thế giới, v́ nó
không phân biệt màu da sắc tóc ngôn ngữ dị đồng. Nếu cả thế giới
biết nh́n nhau như anh em con một cha của tôn chỉ Cao Đài đề
xướng th́ chắc hẳn xă hội sẽ hạnh phúc thế giới sẽ đại đồng
không có những cuộc chiến tranh khốc liệt vô nghĩa như đă xảy ra
!!!
Đọc qua
toàn văn quyển sách, tôi thấy Bà Trần Thu Dung đă bộc lộ nhiều
thiếu sót mà ai đọc qua cũng thấy. Nay với vài ư tưởng nhỏ của
đàn hậu tấn, tôi được đôi hàng tâm sự với Bà Trần Thu Dung để từ
đó giúp bà đính chính lại cho đúng sự thật để Bà hoàn hảo hơn
khi viết những tập nghiên cứu khảo luận sau này với Đạo Cao Đài
và các tôn giáo khác ( nếu có ai nhờ cậy). Đồng thời cũng giúp
cho các bạn trẻ cùng thời với tôi có được một tư duy khoa học
hơn trong việc đọc sách hay là các khảo luận dù cho tác giả là
ai, ở tầng lớp nào.
Tôi xin
trích ra sau đây câu chỉ dạy hơn 2500 năm mà Đức Thích Ca Mâu Ni
đă dạy cho chư môn đệ Ngài đến giờ này c̣n có giá trị. Ngày xưa,
muốn cho các môn đồ phải dùng trí sáng suốt mà xét suy phán
đoán, đặng có đức tin vững chắc, Đức Thế Tôn (Thích Ca) bảo:
"Bất
luận điều ǵ có ghi chép trong sách vở, hoặc từ cửa miệng của
chư hiền triết nói ra, hay của tiền nhơn truyền lại, đều không
được nhắm mắt tin càn mà trước phải xét suy phán đoán coi có
đúng lư hay không? "
Với tư
tưởng chủ đạo trên đây nên tuổi trẻ chúng tôi ngày nay không
phải vội tin ngay những ǵ đọc được, v́ vậy tôi xin mạn phép
thưa cùng Bà Trần Thu Dung những hạn chế trong tác phẩm
ĐẠO CAO ĐÀI và VICTOR
HUGO của Bà như sau:
Những sai sót cơ bản:
I-SAI VỀ H̀NH THỨC:
1-Nguyên
tắc xuất bản.
Biểu
tượng tôn giáo đặc biệt là Thiên Nhăn của Đạo Cao Đài không được
tùy tiện đem in vào b́a sách nhưng TTD đă làm, vậy hỏi TTD có
phép của Hội Thánh hay chưa? Biểu tượng đă bị Hội Thánh cấm nếu
không có phép th́ không được tự ư sử dụng.
2-Không
giới thiệu tóm tắt tiểu sử tác giả, nên người đọc không rơ
khuynh hướng của tác giả để dễ thông cảm cho những câu nói
nghịch lư của tác giả. Đây là điều hết sức hạn chế mà Bà Trần
Thu Dung mắc phải khi Bà không viết đôi hàng về ḿnh như địa
chỉ, email hay số điện thoại để độc giả có thể liên hệ khi cần.
3-Nhà
Xuất Bản Thời Đại có xuất bản quyển sách ĐẠO CAO ĐÀI & VICTOR
HUGO của tác giả Trần Thu Dung hay không? Trong danh sách những
quyển sách đă xuất bản của Nhà Xuất Bản Thời Đại không có quyển
này . Nhưng, sách
vẫn đă được in và có mặt trên thị trường th́ ghi :
“Nhà Xuất Bản Thời Đại ”
được in tại Công ty TNHH In Hà Anh. Giấy đăng kư KHXB số :
869-2010/CXB/06-38/TĐ cấp ngày 19-11-2010. In xong nộp lưu chiểu
Quư I năm 2011”.
4- “Công Ty TNHH in Hà Anh”có
mặt ở Việt Nam hay
không? T́m mà vẫn không thấy địa chỉ, trang Web hay số điện
thoại của Công Ty này để xác minh. Phải chăng đây là một tṛ lừa
bịp độc giả của bà Trần Thu Dung?
II-SAI VỀ NỘI DUNG:
Chính Bà TTD đă xác định:
“Bất kỳ Đạo nào du nhập hay mới
phát sinh ở Việt Nam đều không tránh khỏi sự phê phán của những
người không đồng quan niệm. Đạo nào cũng gặp những thăng trầm
trong quá tŕnh tiến hóa của lịch sử..”
(trang 163,
ĐCĐ&VH)
Nên tôi xem bài viết trong tác
phẩm Đạo Cao Đài & Victor Hugo của bà TTD nằm trong cái dạng phê
phán không thiện ư của những người không ưa thích tôn giáo như
bà đă nói ở trên.
Bà TTD đă phạm các sai lầm
nghiêm trọng v́ cái thành kiến không ưa thích đó. Tôi xin trích
dẫn và phân tích như sau:
a-Sai
kiến thức:
“..Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, có nghĩa là con đường lớn, lần thứ ba để cứu
độ con người khỏi bể khổ trần gian như Đức Phật” (trang
31-đ2 - ĐCĐ&V.H ).
Câu này
Bà TTD đă chứng tỏ rằng không hiểu tí ǵ về Đạo Cao Đài.
Tôi xin
giải thích rơ giúp Bà:
“Đại” không phải là “lớn”:
đại số không phải là số
lớn; đại diện không phải là mặt bự.v.v. mà chính là:
1-Đại:
nghĩa thông thường là lớn, đối với tôn giáo không phải tín đồ
đông sản nghiệp nhiều là lớn mà đường lối tu hành thích hợp đối
với mọi tầng lớp trong nhơn loại trên toàn thế giới mới gọi là
lớn.
Thượng đế khai Đạo kỳ này cho
nhơn sanh tự lập luật lệ mà tu, rồi dâng lên Thượng Đế hoặc các
Đấng Thiêng Liêng duyệt xét lại để khỏi phải xa chánh giáo mà
vẫn gần nhơn sanh, hơn nữa nhơn sanh có quyền dâng sớ lên cầu
xin học Đạo, Thượng Đế sẽ tùy tŕnh độ tấn hóa của nhơn sanh mà
dạy Đạo.
Thế nên luật tu hành của Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ không bị đóng khung cố định, trái lại đồng biến
theo tŕnh độ tiến hóa của nhơn loại, rất thích hợp với tất cả
các tầng lớp trong nhơn loại.
V́ thế Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mới
gọi là Đại Đạo.
2-Đại
c̣n có nghĩa là thay thế. Thay thế những tôn giáo đă
thất kỳ truyền, không c̣n thích hợp với tŕnh độ nhơn loại hiện
đại nữa. Ngày xưa
khi lập giáo các vị Giáo chủ v́ phải tùy theo phong tục tập quán
và tŕnh độ của nhơn sanh nơi tư phương lập giáo, nên giáo
thuyết đôi khi thích hợp với nơi này lại nghịch với nơi kia. Và
khi vị Giáo chủ qui thiên (chết) môn đồ kế nghiệp bị ngoại cảnh
chi phối, sửa cải dần giáo thuyết làm sai lạc chơn truyền.
Nay giáo thuyết Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ tổng hợp và dung ḥa được các giáo thuyết và triết
thuyết: Qui tam giáo:
Nho giáo , Thích giáo , Đạo giáo;
Hiệp ngũ chi : Nhơn
đạo, Thần, đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo, gạt bỏ những tiểu
tiết dị đồng, chọn lấy những điểm đại cương ḥa đồng, đúc kết,
hệ thống hóa làm sáng tỏ tạo thành một giáo thuyết độc đáo thích
hợp với mọi dân tộc trên thế giới
V́ thế nên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
mới gọi là Đại Đạo .
3-Đại:
theo hán tự gồm chữ nhơn và chữ nhứt hợp lại.
Chữ nhơn viết hai phết, phết bên
phải chỉ âm, phết bên trái chỉ dương, tức âm dương tương hợp
phát khởi càn khôn hóa sanh vạn vật. Thế nên con người mới là
con vật tối linh trong vạn vật được liệt vào hạng tam tài :
Thiên, Địa, Nhơn.
Chữ nhứt viết một gạch ngang.
Trong Càn khôn vũ trụ mọi vật đều có cái thứ hai, chỉ có Trời là
độc nhứt vô nhị, chữ nhứt ám chỉ Trời.
Mà chữ ĐẠI gồm chữ NHƠN và chữ
NHỨT hợp lại, hàm chứa ư người biết tu, đoạt cơ mầu nhiệm tạo
hóa, tức đắc nhứt, mà nhơn đắc nhứt tắc thành; người đoạt cơ mầu
nhiệm tạo hóa th́ trường tồn.
Vậy chữ Đại c̣n hàm chứa ư nghĩa
Trời-Người hiệp một vĩnh cửu trường tồn. Thật đúng với giáo
thuyết Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ : Vạn linh hiệp với Chí linh, chánh
giáo sẽ vĩnh cửu trường tồn không biến ra phàm giáo.
(Đặc San Hội Yến Diêu Tŕ, Hội
thánh kiểm duyệt 07-04-Canh Tuất dl 11-5-1970)
b-Trích
dẫn sách ma (không có thật)
-Bà TTD
đă nhắc đến gia phả của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bà với tư cách ǵ mà
được đọc gia phả của một ḍng họ lớn như của Trạng Tŕnh Nguyễn
Bỉnh Khiêm? Trong khi
gia phả ấy đă có từ 500 năm về trước mà biết ngày mất là
18-11- Đinh Dậu 1585? (trang 73 ĐCĐ&V.H )
Bà đă cố
t́nh cấy vô ngày mất như thế để chứng minh sự hóa thân trùng
nhập. Trong Đạo Cao Đài việc tái kiếp cùng một lúc nhiều kiếp
phàm là điều không có ǵ lạ:
Câu kinh:
“Nhứt thân ức vạn, diệu huyền thần biến” đă nói lên điều đó.
Mỗi lần
đầu kiếp là tạo một thành viên cho Tông Đường của chúng ta.
(CĐTLHS- ĐHP)
“Theo
cuốn Lịch Sử Đạo Cao Đài của Lê Quang Vinh, việc truyền Đạo…
” (trang 146- đoạn 1 ĐCĐ&VH)
Thực sự
trong Đạo Cao Đài không có ai tên Lê Quang Vinh cả, thưa Bà TTD!
c-Lư
luận cường điệu do suy đoán chủ quan:
“Lư
do Victor Hugo được phong thánh trong đạo Cao Đài dường như c̣n
huyền bí…Qua các nghiên cứu, khảo sát các tài liệu rải rác và
các hồ sơ lưu trữ trong các thư viện của Pháp về thời kỳ thuộc
địa ở Đông Dương, những lư do phong thánh dần được hé lộ.. ”
{đoạn 1-trang 97 sách Đạo Cao Đài & Victor Hugo (ĐCĐ&VH)}
Như vậy,
Bà TTD nghiên cứu Đạo Cao Đài không qua Văn tịch pháp chính
thống của Cao Đài mà dựa vào các văn bản của thế lực cường quyền
nghịch đạo lúc nào cũng muốn tiêu diệt đạo?
Hai từ
“Phong Thánh” Bà TTD đă dùng đi dùng lại rất nhiều lần, tôi xin
nhắc cho
Bà hiểu rơ hơn: Trong Đạo Cao Đài việc phong Thánh
là quyền của Thiêng liêng. Đạo Cao Đài không phong Thánh cho
Victor Hugo, mà do Đức Thượng Đế
giao nhiệm vụ cho Ông ấy làm Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại
giáo. Chính Victor Hugo đă đến với Đạo Cao Đài bằng nhiệm vụ của
một vị Thánh để giáo hóa nhơn sanh. Trong hữu h́nh, Hội Thánh
chỉ phong phẩm tước theo công nghiệp chứ không hề phong Thánh
cho ai bao giờ.
Chính Bà
TTD đă xác định:
“khi
các thế lực không ưa thích luôn t́m cách nói xấu Đạo...”
“Tài liệu để phục vụ t́m hiểu
đạo rất hiếm và khó t́m. Một phần tư liệu bị mất do sự thay đổi
thể chế chính trị nhiều lần, và một phần người viết không phải
là một tín đồ Cao Đài. Những cuộc đối thoại, phỏng vấn trong
những lần gặp gỡ các nhà chức sắc Cao Đài bị hạn chế. Thừa sử Lê
Quang Tấn thừa nhận tài liệu bị đốt đi rất nhiều sau một lần có
sự cố chính trị. ”(trang 5 lời tựa ĐCĐ&VH)
“T́nh h́nh chính trị và xă hội ở
miền Nam ngày càng trở nên phức tạp”(trang
29-đ2- ĐCĐ&VH) .
Thực sự
vào thời đó Đạo không có ǵ gọi là “càng
trở nên phức tạp” cả. Câu này thích hợp bối cảnh hiện nay
th́ đúng hơn, v́ đă được
đảng và nhà nước VN nhắc đi nhắc lại thường xuyên.
“Ngày 7-10-1926, Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ chính thức được thành lập với 247 thành viên kư tŕnh tờ
Khai Tịch Đạo gởi lên thống đốc Nam kỳ Le Fol. Ngày 19-11 năm
1926, lễ ra mắt long trọng khai đạo được tổ chức tại chùa Từ Lâm
(G̣ Kén) Tây Ninh có sự hiện diện của quan chức chính quyền
Pháp. Đạo Cao Đài chính thức trao quyền lại cho Lê Văn
Trung”(trang 31 đoạn cuối ĐCĐ&VH):
Câu này
bà TTD tự mâu thuẫn với câu:
“Nhiều giáo phái ra đời để che
giấu sự hoạt động chính trị nhằm chống chính quyền thực
dân…..Đạo cao Đài cũng là một tổ chức ra đời trong khuynh hướng
đó…” (trang 26 đoạn cuối ĐCĐ&VH) :
-“sau một thời gian do bất đồng
ư kiến nội bộ những người sáng lập, Ngô Minh Chiêu rút lui về
Cần thơ tự ḿnh thành lập phái Chiếu Minh hay gọi là Cao Đài bí
truyền”(trang 32 ĐCĐ&VH)
Bà TTD dă
không dấu được cái kém thấy của ḿnh và không hiểu ǵ về lịch sử
Cao Đài nên tưởng tượng ra đó là bất đồng, hoặc là nhớ lộn việc
ly khai của Nguyễn Ngọc Tương và lê Bá Trang rồi tưởng tượng Ngô
Minh Chiêu cũng như vậy. Bà nên nói lại cho đúng là: chính là
Ngô Minh Chiêu không thích tu pháp môn Phổ Độ nên không nhận
Giáo Tông. Và trong tuyên ngôn khai Đạo của Đạo Cao Đài không có
tên Ngô Minh Chiêu đứng kư tên.
(trang 181-182
ĐCĐ&VH).
Theo Đạo
Nghị Định thứ Tám việc làm của các phái Cao Đài
bất tuân luật pháp Đại
Đạo nên không phải của Đức Chí Tôn .
-“Sự
phân hóa nội bộ cho đến ngày nay vẫn là một vết thương lớn trong
đạo Cao Đài và giảm uy tín của Đạo” (trang33 đoạn đầu ĐCĐ&VH).
Với chủ
trương Tự do tín ngưỡng, người sáng lập Đạo Cao Đài không cần số
lượng mà là cần chất lượng:
“Dù
c̣n một tín đồ Hội Thánh vẫn giữ quyền Hội Thánh” (Pháp
Chánh Truyền).
Không cầu danh lợi nên
Đạo Cao Đài không hề coi chuyện bất phục tùng của một số chức
sắc là một vết thương lớn.
-“Các
nhà sáng lập Đạo Cao Đài vốn là học tṛ trường thuộc địa Pháp,
và trở thành công chức trong chánh quyền thuộc địa. Họ trở thành
đích nhắm của Hội Tam điểm”
(trang 128 ĐCĐ&VH)
-“…một
số thẻ ghi tên những thành viên tham gia hội Tam Điểm. Cao Triều
Phát được phong chức chưởng pháp một chức sắc lớn, đồng thời làm
chi trưởng một Thánh Thất Cao Đài là một ví dụ điển h́nh”(trang
128 ĐCĐ & VH).
Thuyết
minh thêm cho Bà TTD rơ : Cao Triều Phát là một nhà chánh trị
mượn cái vơ tôn giáo Cao Đài. Cao Triều Phát chưa hề nhập môn
làm môn đệ Cao Đài bao giờ. Việc Ông ta là hội viên ǵ ǵ th́ đó
là chuyện riêng của ông ấy. Vả lại lốt Cao Đài mà Cao
Triều phát mượn đội
không hề tùng luật lệ Cao Đài Ngọc Đế - Ṭa Thánh Tây Ninh.
-“… Nguyễn Ái Quốc (NAQ) khi mới
qua Pháp, Ông cũng từng nộp đơn xin học trường chuyên đào tạo
quan lại, nhưng bị từ chối. Phải chăng Ông cũng hy vọng làm quan
mới có dịp tiếp xúc với tầng lớp có thế lực để t́m sự giúp đỡ
của người cầm quyền, thuyết phục họ ủng hộ ư chí giải phóng áp
bức bóc lột ở các thuộc địa?...” ”(trang 129 ĐCĐ & VH).
Cảm ơn Bà
TTD đă cung cấp tư liệu này mà tuổi trẻ chúng tôi không hề được
biết. Nhưng suy luận của Bà TTD cũng lại rất cường điệu vô t́nh
bôi nhọ danh dự NAQ. Nếu NAQ không bị từ chối trường quan lại,
th́ sau khi tốt nghiệp Ông chỉ là những công chức nô bọc hạng
thấp thôi biết chừng nào lên được cao cấp để
tiếp xúc có thế lực để t́m sự giúp đỡ như Bà phỏng đoán?
“…
Sự có mặt của nhiều chức sắc Cao Đài trong FB3 là điều dễ hiểu.”
(trang 131 ĐCĐ & VH).
Điều này
không có căn cứ. Yêu cầu Bà TTD phải trưng được bằng chứng cụ
thể!
d-Sai
tên nhân vật:
Trong Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ -Ṭa Thánh Tây Ninh (ĐĐTKPĐ-TTTN) không có tên
của những người sau đây:
-“Đầu
Sư Phạm Thị Tốt mà Bà TTD cho là con gái của Hộ Pháp Phạm
Công Tắc” (trang
151-152 ĐCĐ&V.H ĐCĐ&V.H)
Đức Hộ
Pháp Phạm Công Tắc chỉ có hai con gái là Phạm Hồ Cầm và Phạm …
Tranh.
-“Hồ
Bảo Đại và Cao Tiếp
Pháp “(trang 61
ĐCĐ & V.H ) là hai tên hoàn toàn xa lại với tín hữu Cao Đài.
-Trong
Đạo Cao Đài không có Chức sắc nào tên
“Lê Bá Trảng” cả
(trang 33 đoạn đầu ĐCĐ&VH)
-Cái nhầm
lẫn lớn nhất là TTD đa “cảm
ơn cố Thừa Sử Lê Quang Tấn..” (trang 6 ĐCĐ&V.H).
Có lẽ TTD đă có cuộc
phỏng vấn một Lê Quang Tấn trùng
họ tên nào đó rồi sợ phải đối chứng nên cố t́nh bịt đường xác
minh của đọc giả nên cho là Lê Quang Tấn đă quá cố. Thật sự đến
giờ phút này (lúc viết ĐCĐ&V.H - 2011 ) Ông Thừa Sử Lê Quang Tấn
của Đạo Cao Đài vẫn đang
mạnh khỏe ở tại Thánh Thất số 891 Trần Hưng Đạo Sài G̣n. (1)
-Trong
đạo Cao Đài Ṭa Thánh Tây Ninh không có tên Đạo như ..
“
Giáo hữu Chí Tín, Giáo
hữu Lê Quang Sách, Lễ Sanh Huỳnh Tâm..”
(trang 6 lời tựa ĐCĐ&VH)
Nếu có
chăng nữa th́ phải là thánh danh như : Giáo hữu Ngọc Tín Thanh,
Lễ Sanh Thượng Tâm Thanh v.v. Điều nầy chứng tỏ Bà TTD đă trích
dẫn các tài liệu trôi nổi không đươc Hội Thánh kiểm duyệt. (Hội
Thánh đă có ban kiểm duyệt Kinh Sách.)
e-Sai
tài liệu trích dẫn :
Tài liệu trích dẫn trôi nổi, ngoài luồng không được Hội Thánh
công nhận:
* Quyển sách có tên “
HƯỚNG DẪN THĂM T̉A THÁNH TÂY NINH” của Ông Hồ Bảo Đại và Cao
Tiếp Pháp (trang 61 ĐCĐ&V.H) nào đó không được liệt kê
trong Thư mục cuối sách.
Phải chăng TTD đă bịa ra một quyển sách như vậy và cố t́nh đưa
nhầm tên tác giả để đánh lừa người đọc? Đây là chiêu lấy cái
tưởng tượng để biện minh cho cái tưởng tượng rồi đi phê b́nh
chính cái mới tưởng tượng đó của ḿnh.
f-Sai kiến thức cơ bản của
Đạo Cao Đài:
1-Dù một
trẻ nhỏ con em nhà Đạo Cao Đài cũng không hiểu là ngôi thờ trong
Ṭa Thánh Tây Ninh là địa cầu mà chính là quả càn khôn.
Câu
“Quả địa cầu trong Ṭa
Thánh Tây Ninh” câu giải thích h́nh nghi thờ (trang 139
ĐCĐ&V.H)
2-“Đạo
Cao Đài thờ Thiên Nhăn (mắt bên trái) biểu tượng cho phần
dương”…(trang 36 đoạn chót ĐCĐ&V.H)
Bà
TTD đă tưởng tượng như vậy theo
cái nh́n của người phàm tục, thực ra “Thiên nhăn là ngôi Thái
Cực- từ đó mới sanh lưỡng nghi –âm dương- được biểu tượng bằng
ngôi nhựt nguyệt..” Âm và Dương là hai cực trong Thái cực được
tượng trưng bằng Thiên Nhăn. Bà nên dự một khóa hạnh đường dài
hạn của Hội Thánh dạy để hiểu thêm về giáo lư Cao Đài.
3-“…Lư
Thái Bạch (được coi như Giáo Hoàng vô vi)…” (trang 38 đoạn chót
ĐCĐ&V.H):
Bà TTD đă nhầm lẫn là
ḿnh đang nghiên cứu đạo Cao Đài chứ không phải đạo Công Giáo.
Trong đạo Cao Đài không có phẩm Giáo Hoàng.
4-“…Mỗi
khi cầu phong hay cầu thăng…..: quyền Vạn Linh chấp nhận (từ
Chưởng Pháp xuống đến Hội Nhơn Sanh). Quyền Chí Tôn tại thế
(Giáo Tông Hộ Pháp) chấp nhận, và cơ bút nh́n nhận tại Cung Đạo…”
(trang 42 đoạn chót
ĐCĐ&V.H):
Không
biết Bà Trần Thu Dung đang nói về tôn giáo nào? Riêng Đạo Cao
Đài Toà Thánh Tây Ninh th́ Giáo Tông - Hộ Pháp nằm ở cấp Thượng
Hội trong Quyền Vạn Linh gồm : Giáo Tông, Hộ Pháp, Thượng Sanh,
Thượng Phẩm, Thập Nhị Thời Quân và Đầu Sư.
Việc cầu
phong hay cầu thăng chỉ thực hiện từ Nhơn Sanh lên Phối Sư mà
thôi. C̣n các phẩm trên nữa th́ do quyền thiêng liêng chọn.
Nghiên cứu như bà Trần
Thu Dung vậy th́ quá kẹt (nếu không nói là quá bậy) cho thế hệ
trẻ sau này. Lúc đó họ sẽ quăng công tŕnh của bà vào “trash-can
(thùng rác)” rồi; xin bà đừng trách họ.
5-“…Hiệp Thiên Đài có hai nhiệm
vụ: liên thông với các Đấng thiêng liêng qua cơ bút, và nhiệm vụ
tư pháp và lập pháp trong tôn giáo…”
(trang 43 ĐCĐ&V.H)
Đây là
một sai lầm cơ bản của tác giả Trần Thu Dung. Cơ quan lập pháp
trong đạo Cao Đài là quyền của ba hội lập quyền Vạn Linh chứ
không phải của Hiệp Thiên Đài.
6-Không
phải “…Cao Đài nhấn mạnh
bốn điểm chính cơ bản : Thượng Đế, T́nh yêu, nhân đạo và công lư
…” (trang 46 đoạn áp chót ĐCĐ&V.H) đâu bà TTD ơi.
Bà không đọc được chữ Nho :
“Thiên Thượng-Thiên Hạ”,
“Bác Ái-Công B́nh”
hay chữ Pháp
“Dieu et Humanité”,
“L’Amour et la Justice”
th́ thôi đi c̣n nghiên cứu
ǵ nữa!!!
7-
“Một trong những thiếu
sót của Đạo Cao Đài là thiếu bóng
Đạo Hồi và Mohamet…”
(trang 47 đoạn 2 ĐCĐ&V.H)
Không
hiểu sao mà TTD cho đây là thiếu sót? Đạo Cao Đài với Tôn Chỉ
Qui Tam Giáo-Hiệp Ngũ Chi rành rành. Hồi Giáo và Mohamet là
Thánh Đạo, thay mặt cho Thánh Đạo đă có Gia Tô giáo chủ rồi. Đạo
Cao Đài không phải tổng hợp tất cả Tôn Giáo mà là Qui (tam giáo)
và Hiệp (ngũ chi). Cái hay của Cao Đài Bà TTD làm sao thấu
hết???
8-“…đạo
Cao Đài vẫn bị coi như một giáo phái mới thành lập..”
(trang 47 đoạn 3 ĐCĐ&V.H)
Bà TTD
chắc chắc đă nhầm lẫn hai khái niệm : “TÔN GIÁO” và “ĐẠO”. Bà có
thể không có tôn giáo nhưng Bà không thể không có Đạo. Tôn Giáo
là đường về đến Đạo. Đạo có trước con người, có con người rồi
mới có tôn giáo…
9-“…khi
tiếng chuông nhà thờ đổ dồn, chính là lúc báo hiệu đạo Cao Đài
ra đời….phải chăng đây cũng là tín hiệu sự chấp thuận của chánh
quyền thuộc địa Pháp cho mở Đạo và chứng minh sự ḥa hợp mọi tôn
giáo trong đạo Cao Đài…” (trang 48 ĐCĐ&V.H) .
Ôi TTD,
sao mà ngớ ngẩn và tối nghĩa thế? Chuông nhà thờ đă đổ dồn từ
hơn 2000 năm trước ở Châu Âu rồi. không biết bà nói tiếng chuông
nào? Đạo Cao Đài không hề xin phép khai Đạo với bất cứ ai mà chỉ
gởi tuyên ngôn thông báo khai Đạo. Nên không cần có chấp thuận
hay không chấp thuận.
10-“…ông (Hộ Pháp) cùng một số
chức sắc bị bắt và
đày đi bốn năm ở Madagascar. Trở về Ông tiếp tục phụng sự cho
đạo Cao Đài, ông đă kư kết với chính quyền thuộc địa đồng ư lập
quân đội Cao Đài. Năm 1956 ông lẫn trốn sang Campuchia và mất
tại đó (17-5-1959)”(trang 57 ĐCĐ&V.H).
Đoạn này Bà TTD đă có 3
nhầm lẫn lớn:
a- Bị đày
trên năm (5) năm chớ không phải bốn năm.
b-Quân
đội Cao Đài đă có từ trước
nên mới có thể có mặt trong đảo chính Pháp 9-3-1945. Chứ
không phải quân đội Cao Đài do Hộ Pháp từ Madagasca về lập nên
như bà TTD đă nói.
c-Sang
Cambodge để giữ được trung lập mà cứu hai miền Nam, Bắc Việt Nam
không phải đánh nhau đổ máu vô ích bằng đường lối ḥa b́nh chứ
không phải “ trốn”
sang Campuchia. Vả lại, lúc đó không có quốc gia nào trên thế
giới mang tên Campuchia cả mà chỉ có Quốc Gia Cambodge mà thôi.
Với ba
nhầm lẫn cơ bản trên, tôi đề nghị bà Trần Thu Dung nên học kỹ
lại giáo lư Cao Đài nếu muốn làm nhà biên khảo chân chính.
*********************
Bà Trần
Thu Dung đă cường điệu cho Đạo Cao Đài là một thành phần của Hội
Tam Điểm. Thiết tưởng mọi người cũng nên t́m hiểu đôi điều về
Hội Tam Điểm mà Bà Trần Thu Dung gán cho Cao Đài trực thuộc vào:
*T́m hiểu
Hội
Tam Điểm (HTĐ):
Xin đặt
sau đây ba câu hỏi:
1-Ai là
người sáng lập Hội Tam Điểm?
2-Hội Tam
Điểm xuất phát ở đâu?
3-Từ đâu
mà có để có rải rác khắp thế giới?
“
Hội Tam Điểm không
phải là tổ chức
Chánh Trị v́ không chủ trương lật đổ chánh quyền; cũng không
phải là một tôn
giáo v́ không loại bỏ tôn giáo nào và không đi chiêu phục
tín đồ; không phải là phái giáo v́ không theo hoàn toàn chủ
thuyết nào. Việc kết nạp hội viên rất khắc khe, đ̣i hỏi
những tiêu chuẩn nhứt định về nhận thức, trí tuệ,
nhưng muốn ra khỏi hội th́ hoàn toàn tự nguyện và đơn
giản..” (trang
124 ĐCĐ&VH)
Theo
Tác giả Hanzo:
“Hội tam điểm hay c̣n gọi
là hội kín Illuminati là 1 hội có từ xa xưa , không ai biết
chắc chắn nó bắt đầu từ đâu , theo tiếng Latin có nghĩa là
những người được thần linh khai sáng. Illuminati có lẽ là
hội kín bí mật nhất trong số các hội kín trên thế giới. .
H́nh như nó là 1 hội của các người thợ chuyên xây cất các
thánh đường xa xưa vốn chứa nhiều điều bí ẩn . Các đoàn viên
đều phải giữ bí mật nghề nghiệp nên dần dần trở thành 1 hội
kín.
Các hội viên đều được
tuyển chọn trong những phần tử trí thức và quyền quư . Mỗi
hội viên khi gia nhập đều phải qua 1 nghi lễ rửa tội và nhận
1 con vật làm hộ mệnh . Mục tiêu của hội này là triệt hạ tất
cả những tôn giáo, nhất là Thiên Chúa Giáo để xây dựng 1 ṭa
nhà lư tưởng cho nhân loại “.
“Hội Tam Điểm
Người viết Nguyễn Văn Hoàng
I- Lịch sử hội Tam Điểm
1. Hội Tam Điểm là ǵ?
Hội Tam Điểm tự coi như là một ḍng hệ kết nạp (Ordre
Initiatique) các hội viên để huấn luyện nhau bằng những biểu
tượng (symbole) và các nghi lễ (rites) một cách bí truyền
(Esotérique), phi giáo điều (adogmatique), lũy tiến (Progressif)
tới sự hoàn thiện của nhân loại. Phương tiện hoạt động của họ là
làm việc phước thiện, khuynh hướng của họ lại thay đổi tùy theo
thời đại và xứ sở. Tổ chức Tam Điểm có rải rác trên nhiều quốc
gia trên thế giới, quy tụ những hội viên cấp tiến với mục đích
tự cải thiện đời sống tinh thần và đạo đức.
Hội Tam Điểm thường được coi như là một tổ chức đạo đức đặc biệt
h́nh dung bằng những biểu tượng. Họ tự cho như là một công cụ
huấn luyện ái hữu (outil fraternel) dùng những phương pháp đặc
biệt để huấn luyện các khả năng nghe, suy nghĩ và đối thoại để
có thể truyền đạt các giá trị đă thâu hoạch được cho các người
chung quanh.
Nói một cách đơn giản, hội Tam Điểm không phải là một đảng chính
trị v́ không chủ trương cướp chánh quyền, không phải là một tôn
giáo v́ không loại bỏ tôn giáo nào và không đi thuyết phục tín
đồ, không phải là một giáo phái (secte) v́ không theo một chủ
thuyết nào (doctrine). Sự kết nạp vào hội Tam Điểm rất khắt khe,
song sự ra hội lại rất tự do và thong thả.
2. Mục tiêu của hội Tam Điểm:
Mục tiêu chính của hội Tam Điểm là xây dựng. Họ làm việc để xây
dựng Đền Nhân Loại (temple de l’humanité), nhiệm vụ của họ chỉ
chấm dứt khi toàn thể nhân loại được phát triển. Dĩ nhiên với
ngưỡng vọng một tương lai như vậy, lư tưởng Tam Điểm chỉ là một
huyền thoại (mythe), nhưng người Tam Điểm vẫn tin tưởng vào ngày
có rất nhiều hội viên Tam Điểm trên toàn cầu để kết thành một
chuỗi người đoàn kết (chaine d’union) có khả năng cho nhu cầu
cần nhất của trí tuệ loài người.
3. Nguồn gốc của Hội Tam Điểm
Tuy là các tổ chức Tam Điểm thật sự không phải là một nghiệp
đoàn bắt đầu xuất hiện đầu tiên ở Ecosse (Tô Cách Lan) vào thế
kỷ thứ XVII, song họ đă cho rằng họ có những nguồn gốc huyền bí,
huyền thoại từ thượng cổ.
Theo Thánh kinh th́ Vua David cho xây đền Salomon để chứa Arche
Dalliance (cái rương chứa các phiến đá có khắc 10 điều răn
(commandements), dấu hiện liên kết (signe d’alliance) giữa
Thượng Đế và người Do Thái) trước đền có hai cột đồng đen Jakin
và Boaz, một biểu tượng Tam điểm do Hiram de Tyr. Sau này, Hiram
bị ba người thợ ám sát v́ họ muốn có bí mật xây cất của Hiram và
người ta cho rằng Hiram và Salomon là thủy tổ của
Franc-Maconnerie.
Theo các bản viết tay (Manuscrit) gọi là Old charges (các trách
vụ cũ) có tên là “Régius” vào thế kỷ thứ 14, th́ ngành xây cất
liên hệ tới khoa h́nh học (Géométrie) do đám con của Lamech viết
trên các cột bằng đá. Sau cơn Đại hồng thuỷ (Deluge), một người
cháu của Noé, tên Hermanis t́m ra những bí mật xây cất và h́nh
học trên các cột đá này để đem dạy cho các người thợ xây tháp
Babel. Sau đó Abraham sang Ai Cập dạy h́nh học cho Euclide để
ông này đem về dạy ở Hi Lạp. Tiếp đó, các người xây cất trở về
Jérusalem để xây đền Salomon.
Theo bản Constitution d’Anderson (viết bên Anh năm 1723) th́
nghề xây cất đă khởi sự từ thời ông Adam là người thợ xây cất
đầu tiên đă được Thượng Đế dạy cho h́nh học. Nhưng qua kinh Cựu
Ước (Ancien Testament) th́ Vua Salomon là Franc-Macon và là
Grande Maitre của Loge (chi hội) Jérusalem. Sau đó, “nghệ thuật
hoàng gia” (Art Royal) này mới truyền sang Hy Lạp, Ai Cập vào đế
quốc La Mă và người ta cho rằng Vua Auguste (-14 cho tới 63 sau
Công Nguyên) là Grand Maitre du Loge de Rome v́ ông ta đă là
người đỡ đầu cho kiến trúc sư Virtruve.
Trong thời đế quốc La Mă, những nhóm ngành nghề tụ họp thành
Collégium để lo các việc kinh tế và xă hội của hội như các
collégium của các nhà buôn đứng ra điều đ́nh với chính quyền để
giữ độc quyền như ngành buôn bán ngũ cốc lại được miễn sưu thuế
[1] và miễn dịch vụ. Mỗi ngành đều có Thánh tổ và hàng năm họ lo
sửa lễ để mừng Thánh tổ. Họ cũng mời những người có quyền thế
(dĩ nhiên là có giàu có) để bảo trợ bằng tài chánh và thế lực và
họ đền bù sự đóng góp này bằng cách tặng cho các ân nhân danh
hiệu Patron (quan thầy).
Sau đó, đế quốc La Mă bị các rợ Gothique và Germanique từ Đức
sang tàn phá vào các thế kỷ từ VI tới thế kỷ IX th́ không c̣n
thợ. Lần lần các ngành nghề mới khôi phục lại thành các Guilde
(gốc tiếng Đức Gelt là đồng tiền) Thánh tổ của ngành xây cất là
thánh Jean d’Evangeliste và ngày vía là ngày 27 tháng 12, Khi
được khai tên kết nạp (initier) người tập sự phải tuyên thệ giữ
bí mật nhà nghề. V́ luôn luôn phải di chuyển từ công trường tỉnh
này sang công trường tỉnh khác, nên họ có cách nhận nhau bằng
những biểu tượng (symbole) và những mật mă (code). Một người thợ
sang Pháp, được Charles Martel, ông của Vua Charlemagne thâu
nhận; một người khác là Thánh Alban sang Anh và được Hoàng hậu
Edwin con ông Vua Anglo Saxon Athelstan bảo trợ tích cực đến nỗi
chính ông ta cũng thành maçon (thợ xây cất)
Tới đây, cũng nên nói qua về
Thập Tự quân với Hiệp sĩ ḍng Temple de Salomon và nhóm Rose
Croix v́ có ảnh hưởng tới Hội Tam Điểm sau này. Prieurés de
Sion Năm 1000, một lănh chúa là Godefroi de Bouillon ở đất
Thánh lập ra abbaye de Notre Dame du Mont Sion: khi thấy các tín
đồ đi hành hương tại Jérusalem bị cướp bóc, các tu sĩ ḍng này
đă bí mật can dự vào việc thành lập ra ḍng Hiệp sĩ Temple
(1118) de Salomon là một ḍng quân sự do Hugue de Payns chỉ huy,
lấy tên là Pauvres Chevaliers du Christ (Bần Hiệp Sĩ Thiên Chúa)
để bảo vệ khách hành hương. Họ đóng quân ở địa điểm đền Salomon
do đó lấy tên là Chevaliers du Temple. Được Giáo Hoàng Innocent
II tin cậy, ḍng này trở nên quyền thế và giàu có, khiến cho Vua
Philippe le Bel đố kỵ và ra lệnh tiêu diệt nhóm này vào ngày thứ
sáu 13/10/1307 (do đó có tiếng là ngày xui xẻo). Thủ lănh
Jacques de Molay bị thiêu (1314), dư đảng trốn sang Ecosse, tài
sản bị tịch thu cho nhà chung Hospitaliers. Nhóm Prieuré de Sion
rút vào bí mật và lấy tên là Rose Croix (Rosae crucis) họ thành
lập một hội thần bí nhưng không dính tới tôn giáo nào nữa. Họ có
triết lư siêu h́nh và hữu h́nh (metaphysique et physique) mục
đích để gợi những năng khiếu của con người. Hội nhắc các đoàn
viên tầm quan trọng của các định luật vũ trụ và thiên nhiên và
nên áp dụng các luật đó. Chữ Rose crucien từ gốc Latin có nghĩa
là chữ thập và hoa hồng do ở biểu tượng chữ thập và hoa hồng của
họ. Thủ lănh của họ gọi là nautonier, như Leonardo da Vinci,
Isaac Newton, Victor Hugo, Jean Cocteau và gần đây Pierre
Blanchard.
Do đó, Franc Maconnerie là hậu duệ của Prieurés de Sion. Vài
ḍng về chữ Franc-Maconnerie. Năm 1015 sau Công nguyên, tại
Strasbourg, một chi hội (loge hay atelier) đầu tiên của các
người thợ đẽo đá nhà thờ Strasbourg được thành lập.
Năm 1119 Hội đồng các Giám mục thành Rouen kết án các nghiệp
đoàn (confrérie)
Năm 1245, bắt đầu xuất hiện tại Strasbourg các tục lệ tiếp nhận
hội viên và khuyến cáo các hội viên giữ t́nh huynh đệ và giữ bí
mật. Cũng vào năm này có đại hội tụ họp 5 chi hội lớn, ấn định
các điều lệ đạo đức, tôn giáo và nghề nghiệp.
Năm 1276 Vua Rodolphe 1er de Halsbourg ban miễn trừ (franchise)
cho các thợ đẽo đá nhà thờ Strasbourg.
Năm 1315 tại Strasboug có đại hội các thợ đẽo đá và thợ xây dựng
và các người xây dựng lại lấy năm này là năm khởi sự của Hội Tam
Điểm mà ta gọi là franc-maconnerie opérative tạm gọi là xây cất
đặc miễn đương hành. Vào năm 1356 tại Luân Đôn có sự tranh giành
giữa những thợ đẽo đá (tailleurs de pierre) và người xây dựng
(poseurs de pierre) do đó có luật lệ năm 1411 ấn định việc kiểm
soát nghề nghiệp: người học việc học 7 năm trời, phải ra trước
một uỷ ban để tuyên thệ trung thành với nghề, với thị xă, với
vua và lúc đó họ mới trở thành người tự do hành nghề xây cất
(free mason), có thể chữ này cũng rút ngắn từ chữ freestone
mason tức là maçon de pierre franche là thợ xây cất đá mềm, dễ
đẽo và dễ điêu khắc. Chữ “free mason” (franc macon) đă chính
thức được dùng từ năm 1376 và năm 1390 người ta đă viết ra cuốn
Thủ bút Régius hay Manucrist Royal nói về tổ chức ngành xây cất.
Năm 1616 nhóm Rose Croix ra tuyên ngôn về đường lối và mục đích
như đă nói ở trên (đoạn cuối về Prieuré de Sion)...”
Trích
Historia Special N48 Juillet-Aout 1997 trang 68-69)
http://www.dcvblogs.com/truyen-thong/2007/10/hi-tam-dim.html
H́nh các biểu
tượng:
không có
một biểu tượng nào tương tự h́nh Thiên Nhăn trong đạo Cao Đài
H́nh 1:
Equerre là biểu tượng của sự ngay thẳng và của vật chất. Người
Tam điểm xây dựng đời ḿnh dùng equerre để hướng dẫn đạo đức cho
ḿnh.
H́nh 2:
Compas, biểu tượng tinh thần cởi mở cần thiết khi khai tâm kết
nạp. Đó cũng là biểu tượng của quảng trường kiến thức.
H́nh 3 Quả
rọi bảo đảm sự thăng bằng của cơ cấu xây cất. Đệ nhị thư kư đeo
trên người với sứ mạng hướng dẫn tập nghề.
H́nh 4 Hai
bút lông bắt chéo là trang trí đeo trên người của ông thư kư
H́nh 5 Đồ trang trí đeo trên người của đệ nhất thư kư để biểu
tượng sự bằng ngang (horizontalité) trong việc làm với các thợ
bạn.
H́nh 6 Ch́a
khoá là đồ trang trí của thủ quỹ.
H́nh 7
Equerre và Compas quyện vào nhau biểu tượng vật chất và tinh
thần không thể tách rời nhau.
H́nh 8 Chữ G
là chữ cái đầu của God (Thượng đế) kiến trúc sư của cả vũ trụ.
C̣n người dưng th́ là Géométrie hay là gnose (nhận thức)
H́nh 9 Ngôi
sao năm cánh đỏ rực tượng trưng người được khai tâm đă toả sáng
cả bóng tối)
H́nh 10 Tạp
dề là trang phục của thợ xây cất, ngừa tai nạn, cũng có nghĩa là
ngừa sự thiếu minh mẫn. Tạp dề này ở thế kỷ XIX gợi lại việc
Hiram bị ám sát.
H́nh 11 Tạp
dề của thầy thợ thế kỷ XVIII có ḥn đá thợ liên tưởng người
phàm, ḥn đá đẽo biểu tượng người được khai tâm. Ở giữa là dụng
cụ xây cất và cái cột, biểu tượng kiến trúc.
H́nh 12
Tạp dề của thầy thợ ở thế kỷ XIX, có h́nh đền Salomon, hai
bên có mặt trăng, mặt trời, tượng trưng cho sự đi từ bóng
tối tới ánh sáng.
Hội
Tam Điểm
( La Franc- Maçonnerie / Freemasonry )
- Hứa Vạng Thọ -
http://www.tinparis.net/timhieu/htamdiem1a.html
“Lúc đầu, các
chi hội Tam Điểm gồm toàn người Pháp, và măi đến năm 1928, mới
chấp nhận nguyên tắc thu nhận người Việt Nam và hội. Theo bài
thuyết tŕnh ngày 28 tháng 10 năm 1933 tại Hà Nội của ông Vũ
Đ́nh Mạnh "Hội Tam Điểm và người Việt Nam" (La Franc Maçonnerie
et les Annamites) th́ Khổng Giáo có nhiều điểm phù hợp với Hội
Tam Điểm chứ không đối nghịch lại như nhiều người hiểu lầm.
Trong thời kỳ 1940-1941 khi nước Pháp bị Đức chiếm đóng, Hội Tam
Điểm bị Đức Quốc Xă và chánh quyền Pétain truy diệt.”
Tóm lại,
theo các tài liệu trích dẫn trên đây th́ lập luận của Bà Trần
Thu Dung cho Đạo Cao Đài là sản phẩm của Hội Tam Điểm là một
chuyện chụp mũ hoang đường. Bà nên rút lại.
“…đến
năm 1928, mới chấp nhận nguyên tắc thu nhận người Việt Nam và
hội..”
Thực ra
đạo Cao Đài khai sáng từ trước 1926.
Theo các
tài liệu trích dẫn trên cho thấy 3 câu hỏi trên đây chứng tỏ Hội
Tam Điểm là một sản phẩm tưởng tượng của TTD đă gán ghép một
cách lố bịch vào đạo Cao Đài.
“Hội Tam Điểm không phải là một
Tôn Giáo v́ không loại bỏ tôn
giáo nào và không đi chiêu phục tín đồ” (trang 124
ĐCĐ&V.H)
Vậy cớ ǵ
đi hoạch định việc thành lập Cao Đài Hải ngoại? Bà TTD đă giấu
đầu lại ḷi đuôi, quên mục đích ḿnh định nói và làm ǵ? TTD đă
mâu thuẫn với chính ḿnh.
Cuối cùng
danh từ France-Macon không có nghĩa lư ǵ đến chữ “Tam Điểm” cả.
Mà thực ra ai biết Tiếng Pháp đều hiểu đây là những người thợ
xây ở Pháp mà thôi.
Giả sử
Hội Tam Điểm có thật th́ cũng không dính líu ǵ đến Đạo Cao Đài
III-
NHẬN XÉT:
Những
điều Bà TTD biết về Hội Tam Điểm c̣n quá mơ hồ. Từ cái sự hiểu
biết mơ hồ đó bà Thu Dung đă cường điệu gán ghép vô tội dạ vào
Cao Đài mà người b́nh dân ít học nhất cũng thấy sự căm thù Cao
Đài của Bà Thu Dung. Xin trích một số ư cụ thể sau đây:
1/
“Thành viên Hội Tam Điểm
(H.T.Điểm) nhận được nhau qua những tín hiệu riêng…”(trang 124
câu đầu-ĐCĐ&VH)
Với ư này
Bà TTD liệt kê những người có tên tuổi trong nước và quốc tế là
thành viên H.T.Điểm là một điều bịa đặt trắng trợn v́ bà cho là
người đă chết không đính chính hay đối chứng được phải không?
2/- Bà
Trần Thu Dung đă dùng những giả sử để phỏng đoán chứ hoàn toàn
không có một chứng cứ nhỏ nào:
a/-
“Các nhà sáng lập Đạo Cao
Đài vốn là học tṛ trường thuộc địa Pháp… họ trở thành điểm nhắm
của H.T.Điểm Pháp. Nhiều người trở thành thành viên H.T.Điểm là
điều không thể phủ nhận ” …”
(trang 124 câu đầu-ĐCĐ&VH)
Với ư này
chứng tỏ Bà TTD
phỏng đoán cho mọi học tṛ trường thuộc địa Pháp là thành viên
H.T.Điểm. Câu không thể phủ nhận đó Bà đă kết tội tất cả tiền
nhân tổ tiên sống trong thời đó có biết Âu học. Bà là quan ṭa
cực đoan kỳ quặc nhứt mà thời độc tài trung cổ cũng không bằng.
b/-
“ Sự có mặt của nhiều
Chức Sắc Cao Đài trong FB3 là điều dễ hiểu…”(trang 131
đoạn1-ĐCĐ&VH)
c/-
“Việc thành lập Đạo Cao
Đài nằm trong tầm ngắm của H.T.Điểm. Nhiều Chức Sắc vừa là tín
đồ Cao Đài vừa là thành viên
H.T.Điểm
(trang 131 đoạn 2-ĐCĐ&VH)
yêu cầu
Bà Trần Thu Dung phải đưa ra bằng chứng cho những lời nói tưởng
tượng đó. Nếu không có th́ Bà là một tên đại gian đại ác, đại
bịp bợm đang bôi nhọ Đạo Cao Đài trong thời hiện đại.
d/-
“Cách xưng hô hiền huynh,
hiền muội không phân biệt tuổi tác trong Đạo Cao Đài là điều rất
xa lạ và bị đánh giá vô giáo dục nếu sử dụng không đúng lúc đúng
chỗ đối với người Việt nam… Thực chất đây là cách xưng hô dùng
trong H.T.Điểm được đem
áp dụng vào Cao Đài “(trang
133- đoạn 1-ĐCĐ&VH).
Bà TTD
nên học lại cho kỹ triết của Cao Đài. Tất cả môn đệ Cao Đài đều
là anh-em. Phẩm Giáo Tông người đứng đầu trong Đại Đạo cũng chỉ
là Anh Cả của nhơn sanh mà thôi…v́ vậy, trong Đạo Cao Đài không
có từ chú bác .v.v. Thêm vào đó, Bà TTD đă mê muội mà quên các
từ hiền huynh, hiền đệ, hiền tỷ, hiền muội là những danh từ
trong trật tự Nho Tông.
Người
châu Âu không có các từ này. Cùng lắm th́ họ chỉ dùng Mon Frère,
Ma Seour (..) mà thôi. Các từ này có ư nghĩa tương tự các từ
hiền huynh, hiền muội mà người Việt đă dùng hàng nhiều thế kỷ
trước. Thực ra, có nhiều đoàn thể có cách phát biểu cào bằng
không c̣n lớn bé, tôn ti, tất cả đều là đồng chí, nhưng không ai
dám nói
“Bị đánh giá vô giáo dục
” (trang 141 đoạn
2-ĐCĐ&VH) .
e/-
‘ Sự liên quan từ
H.T.Điểm với Cao Đài c̣n thấy rơ… ai là người trợ giúp ngân sách
xây dựng?...”
(trang 141 đoạn 2-ĐCĐ&VH).
Cái dấu
hỏi “?” đă xác định
được một sự phỏng đoán hồ đồ lố bịch mà người trí thức cầm bút
chân chính không bao giờ làm.
f/-
“Điều đó chứng minh sự
can thiệp và trợ lực ngầm bên trong của H.T.Điểm…”
(trang 141 đoạn 2-ĐCĐ&VH).
Đây cũng
là một suy đoán hồ đồ lố bịch của TTD.
g/-
“NTCN đă dùng từ “la
section francaise” (chi nhánh Pháp) để chỉ Đạo Cao Đài, phải
chăng cũng nhằm nói Đạo Cao Đài là một chi nhánh của
H.T.Điểm ở Nam Kỳ?
” (trang 148 đoạn 1-ĐCĐ&VH)
vẫn là
một suy đoán hồ đồ lố bịch.
h/-
“… ngày 16-6-1940, chính
quyền thuộc địa cũng ra lịnh đóng cửa Ṭa Thánh Tây Ninh. Phải
chăng Cao Đài vố là con đẻ của Tam Điểm, nên khi phe Tam Điểm
thất trận, người đỡ đầu bị hoạn nạn th́ con đẻ của nó bắt buộc
cũng không tránh khỏi hoạn nạn?...”
(trang 149 đoạn 2-ĐCĐ&VH).
Hai chữ “phải chăng” lại
được dùng như là một rô-bốt.
Cái miệng và cái đầu của TTD không đồng bộ tí nào!
i/-
“thời điểm đó các Đạo
khác ở Việt Nam như Đạo Ḥa Hảo (cũng là đạo mới ở Nam Bộ) c̣n
coi là đạo Phật cách tân và một số giáo phái khác ở Nam Kỳ không
hề bị chung số phận như đạo Cao Đài..”
(trang 151 đoạn 1-ĐCĐ&VH)
Bà Trần
Thu Dung đă thật sự không hiểu biết và cũng không thể hiểu nổi
tầm quan trong của Đạo Cao Đài trên thế giới. V́ đây là Đại Đạo
v́ các thế lực cầm quyền lúc nào cũng lo sợ Đạo Cao Đài sẽ thay
thế các tôn giáo khác đang có, chớ không phải Đạo Cao Đài bị
triệt hạ khi người đỡ đầu là Hội Tam Điểm bị hoạn nạn như suy
nghỉ hạn hẹp của TTD đâu. Ngay sau khi Ngô Đ́nh Diệm cầm quyền ở
Miền Nam th́ Đạo Cao Đài cũng chịu cảnh bị khủng bố thúc phược y
như vậy, cái này cũng dính líu đến Hội Tam Điểm nữa sao?
Việc thấy
tương tự rồi quyết đoán một cách hàm hồ của Bà Trần Thu Dung sao
mà giống câu chuyện sau đây: “Một cậu bé nhà quê theo mẹ ra chợ,
v́ một sơ ư bị lạc mẹ nên khóc đi t́m. Nhớ lại khi ở nhà thấy mẹ
mặc áo màu xanh. Nên cậu bé thấy ai mặc áo màu xanh cũng chạy
theo mừng kêu mẹ. Một chị nọ thấy bố ḿnh ở nhà dùng thuốc tể
(loại thuốc hoàn màu nâu đen của thuốc bắc). Ra đường thấy phân
dê răi đầy, chỉ lượm về cho ông ấy uống v́ nó giống như thuốc tể
mà cha ḿnh đang dùng”.
j/-
“…đó là việc không thể
kiểm chứng được và không biết Victor Hugo có đến Mexique bao giờ
chưa?...” (trang
1150 đoạn 1-ĐCĐ&VH).
Đây là
lời thú nhận khôn ngoan và chân thật mà TTD không thể che giấu
sự thật cho sự phỏng đoán mơ hồ vô căn cứ của ḿnh.
-“…Phải chăng Hội Tam Điểm không
kết nạp được Victor Hugo lúc sống nên đă dùng Cao Đài như là
trung gian kết nạp V. hugo sao khi đă mất?..”
(trang 151- đoạn 1- ĐCĐ&V.H)
Lại một
dấu hỏi “?” chứng tỏ Bà Trần Thu Dung vừa tung một hủ mắm thối
ra đường rồi la hoảng lên thối quá! Bà đúng là vừa ăn cướp vừa
la làng theo ngôn ngữ Việt Nam.
-“…
Sau đó Hugo trở thành
người phụ trách linh thiêng của Đạo Cao Đài, phải chăng đó chính
là sự xúi giục hay là sự gợi ư bắt buộc của Hội Tam Điểm?... Đạo
Cao Đài chỉ là h́nh thức của Hội Tam Điểm bản địa lập ra dưới
h́nh thức Tôn Giáo để thu hút tín đồ…”
(trang 153- đoạn 2- ĐCĐ&V.H)
Bà Thu Dung lại dùng chữ
“Phải chăng…” một suy đoán hồ đồ lại được sử dụng.
C̣n nhiều
câu suy đoán lung tung khác nữa trong sách của Bà mà người viết
tiểu luận này không thể trích dẫn hết để chứng minh cho dă tâm
của bà Trần Thu Dung…
MỤC ĐÍCH CỦA bà Trần Thu Dung
là ǵ?
Mục đích
chính của tác giả TTD đă lộ rơ là mong muốn tín đồ Cao Đài bội
sư, phản bạn và chống Trời không thể che đậy với thế hệ trẻ khi
bà viết những câu sau đây:
1/- “Tự hào về ông cha, các tín
đồ Cao Đài nên mạnh dạn duy tŕ và đứng lên thay đổi đạo luật”
(trang 172 ĐCĐ&V.H).
Câu này
TTD đă xúi giục người tín đồ Cao Đài phá luật, phản Thầy, phản
Đạo, phản lại lời minh thệ lúc nhập môn cầu Đạo là … “ǵn
luật lệ Cao Đài”. Một lời xúi giục đại gian đại ác.
2-/ “Tại sao các tín đồ Cao Đài
trẻ không theo gương chức sắc tiền bối cách tân luật lệ để đạo
Cao Đài phát triển và lan rộng? khi không c̣n phù hợp với t́nh
h́nh đương thời đạo cũng cần phải biến đổi để duy tŕ và tồn
tại. Các tín đồ nên thay cầu cơ bằng việc tự bầu dân chủ để có
người đứng đầu cầm cân nẩy mực điều khiển đại gia đ́nh ngày càng
đông thành viên?” (trang 173 ĐCĐ&V.H).
Tiền bối
nào đă “cách tân”? mà noi gương?
Câu này
cho thấy mục đích của TTD phục vụ cho ai, chẳng phải đă có một
nhóm chức sắc có thế lực đă làm theo ư của Bà Trần Thu Dung đi
lập Bàng Môn Tả Đạo từ năm 1997 đó sao? Họ đă bỏ Pháp Chánh
Truyền và Luật Đạo để bầu dân chủ như TTD muốn rồi đó? Và họ đă
bị nhơn sanh lên án và tẩy chay như thế nào! Nay họ nhờ TTD làm
thuyết khách để dụ dỗ tuổi trẻ chúng tôi? Có phải TTD đă viết
thuê (bồi bút) cho họ?
Một điều
lố bịch là một người không biết đạo lại đi nghiên cứu đạo như
Trần Thu Dung là chuyện mắc cười trong lịch sử đông tây kim cổ.
Nếu TTD
biết được sự khác biệt của luật đời và luật đạo là chỗ nào th́
sẽ không làm bồi bút cho nhóm canh cải chơn truyền hay là nhóm
“cách tân” (trang 173
ĐCĐ&V.H) như TTD đă như TTD đă đề nghị.
Luật
đời luôn lạc hậu và đi sau thời đại v́ là của người phàm đầu óc
hạn hẹp soạn ra, khi
không c̣n phù hợp thi phải thay cho kịp.Và măi măi con người
không thể theo kịp.
Luật
Đạo luôn đi trước thời đại v́ do các bậc đại giác lập thành, nó
đặt ra các chuẩn mực cao quư để con người vươn tới
… Nếu chúng ta thấy cái chuẩn mực này không vươn tới nổi th́ xin
bước ra, hà cớ ǵ phải “cách tân”?
TTD có
thể gạt gẫm những người chưa hiểu Đạo hay mới chập chửng nghiên
cứu Đạo, nhưng người tín đồ Cao Đài th́ coi TTD là một con cờ
tội nghiệp.
KẾT LUẬN:
1-Tầm cỡ,
giáo thuyết, tôn chỉ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Ṭa Thánh Tây
Ninh là mục tiêu cho mọi dân tộc trên thế giới. Ngày nào cả
chúng sanh trên hành tinh này tin tưởng, ḥa hợp thương yêu như
con một cha, các tôn giáo đều là xuất phát từ ḷng thương yêu
của đấng Cha chung đó như giáo lư của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Ṭa
Thánh Tây Ninh th́ ngày đó cả thế giới sẽ ḥa b́nh.
2-Không
có một nhà Chánh trị tài ba nào có được lư thuyết phù hợp toàn
cầu như thế. Kể cả các Tôn Giáo đă thành lập rất lâu trên hành
tinh nầy cũng chưa có ư niệm lập một đại đồng thế giới xem các
Tôn Giáo là đồng nguyên, các dân tộc là anh em như Đạo Cao Đài.
3-Với các
sai sót căn bản nêu trên, quyển sách ĐẠO CAO ĐÀI & VICTOR HUGO
của tác giả Trần Thu Dung phải được thu hồi và tiêu hủy v́ ra
đời nhằm một mục đích không tốt.
4- có một
điều ngộ nghĩnh là Đạo Cao Đài lúc nào cũng bị người cầm quyền
đương nhiệm lo sợ rồi t́m cách này hay cách khác gây khó khăn
cho Đạo . Nhưng càng bị tấn công th́ Đạo Cao Đài lại càng lớn
mạnh và uy tín của Đạo chẳng những không suy giảm mà trái lại
càng làm cho người độc giả củng cố niềm tin hơn vào Đạo Cao Đài.
Càng bị tấn công càng lôi kéo số đông người vào t́m hiểu. sau
khi t́m hiểu khách quan th́ uy tín của Đạo Cao Đài càng ngày
càng tăng. Bằng chứng cụ thể cho thấy Đào Trinh Nhứt trước đây
và sau này là Nguyễn Khải cũng phải thân bại danh liệt đành im
hơi lặng tiếng không biện hộ được sự làm bồi bút dùng văn chương
khủng bố Đạo Cao Đài. Đại gia đ́nh ăn nói bậy bạ lại thu nạp
thêm một Trần Thu Dung của thời đại bùng nổ thông tin.
5-Tín đồ
Cao Đài v́ ḷng từ bi và đức háo sanh của Đức Chí Tôn đă dạy
đồng ư khoan hồng và tha thứ cho Bà tất cả nếu Bà nh́n nhận
những tiêu cực của quyển sách đă được vạch rơ.
Cũng may cho bà là viết
bôi nhọ Cao Đài. Nếu bà làm tương tự với Hồi Giáo th́ Bà sẽ khốn
khổ như Salman Rusddie vậy.
Chúc Bà
được tinh thần minh mẫn đễ có những nghiên cứu đúng đắn hơn!
----------------------------------------------------------
Ghi chú:
(1):(ngày 15 tháng 08 Quư Tỵ (dl
19-09-2013 là ngày mất của Thừa Sử Lê Quang Tấn))
Thánh Địa Tây ninh, tiết mạnh
Thu năm Tân Măo
CAO ĐÀI TRẺ