NĂM MỚI THỬ XÉT LẠI TRIẾT LƯ CAO ĐÀI
CÓ PHÙ HỢP VỚI THIÊN NIÊN KỶ NÀY HAY KHÔNG?
Từ Chơn
Những băn khoăn
Một hôm tôi vào tự điển Wikipedia trên internet để xem trang Cao
Đài. Trong phần thảo luận, một vị khách nào đó đă có nhận xét
thẳng thừng như sau: “Đạo này chẳng có triết lư ǵ cả, chỉ vay
mượn, chắp vá ý tưởng của những tôn giáo khác mà thôi.…” Tôi
thành thật cảm ơn người bạn không quen đă có một nhận định rất
thẳng thắn, và cầu mong cộng đồng Cao Đài, những ai tự nhận ḿnh
có trách nhiệm với tiếng nói của Cao Đài, cùng những ai muốn lập
ngôn với Đức Chí Tôn, hăy suy gẫm về nhận xét này, rồi tự học
hỏi thêm nữa để làm tṛn trách vụ của ḿnh.
Thông thường, những ai mới tiếp xúc với Cao Đài lần đầu đều
không tránh khỏi có những nhận xét tương tự như trên. Để cho vị
khách quí ấy có nhận xét như thế là lỗi của chúng ta: con cái
của Đức Chí Tôn đă không nói rơ được triết lư cao cả của Đại Từ
Phụ. Tuy nhiên, nếu xét cho kỹ th́ nhận xét này cũng có những
nguyên nhân tương đối dễ hiểu. Trước hết, phần lớn kinh sách của
Cao Đài chưa vượt quá mức độ lập đi lập lại hệ thống triết lư
của Đạo Phật, Đạo Lăo và Đạo Khổng. Thậm chí nhiều tác giả chỉ
mới giải thích sơ sài triết lư của ba tôn giáo này th́ đă vui
ḷng tự cho rằng ḿnh nói được nguyên tắc của Cao Đài rồi.
Ngoài ra, chưa có đặc trưng nào của Cao Đài được chính thức giới
thiệu một cách có hệ thống bằng ngôn ngữ đương thời để cho người
học đạo dễ dàng t́m hiểu. Hiện cũng có một số tác giả cố gắng
làm điều này nhưng phần lớn viết bằng cổ văn nặng nề điển tích,
đôi khi lại mang tính thần bí, rất khó hiểu đối với giới trẻ
ngày nay.
C̣n có thể kể thêm là chưa thấy có những ư tưởng đột phá có tầm
mức quốc tế. Đa số các tác giả viết về Cao Đài thường lập lại
100% thánh ngôn, chứ không dám có những suy tưởng “vượt rào
ngoạn mục”. Một số tác giả lại loay hoay với những gút mắc nặng
phần sử học, xoay quanh những mâu thuẫn nội bộ trong thời kỳ
khai đạo. Than ôi! Chúng ta chưa vượt ra khỏi chiếc vỏ bọc cục
bộ của chính ḿnh th́ nói ǵ đến truyền đạo ra ngoại quốc!
Điểm cuối cùng là văn hóa Cao Đài dường như đứng yên không phát
triển. Chúng ta đều biết rằng ngoài kinh điển ra, luôn có một
nền văn hóa song hành với tôn giáo. Văn hóa này thể hiện qua
cách diễn giải, truyền bá triết lư của tôn giáo, và giúp đưa
những nguyên tắc sống theo đạo lư vào trong xă hội. Kinh luật
cần phải giữ nguyên không đổi, nhưng văn hóa dùng để phổ biến
triết lư tôn giáo không thể khư khư giữ măi một h́nh thức cố
định. Muốn truyền bá rộng răi th́ không thể đem một câu văn, một
từ ngữ hoặc một quan điểm thịnh hành cách đây đă tám mươi năm để
thuyết phục một người sống trong thời đại tin học hiện nay. Một
bài thơ thất ngôn bát cú khoán thủ, chẳng hạn, có thể
tạo một xúc cảm đặc biệt trong lòng một nhà nho mười
thập kỷ trước, nhưng đối với giới trẻ hiện nay, một bài
thơ như vậy chỉ c̣n có giá trị nhất định về mặt nghiên cứu
lịch sử.
Con cái Đức Chí Tôn phải tạo ra một nền văn hóa theo sát sự biến
chuyển của thời đại. Nói cách khác, văn hóa phải sống. Phải có
những bài viết mới, phải có những h́nh thức phổ biến mới, phải
mở hướng đi mới. Trong văn hóa, ngừng lại không phát triển có
nghĩa là lạc hậu, mà lạc hậu th́ không thể thực hiện được nguyên
tắc phổ độ của Cao Đài.
Vậy muốn làm cho mọi người hiểu rơ hơn về triết lư Cao Đài, con
cái Đức Chí Tôn phải học hỏi ngày càng nhiều để có tŕnh độ văn
hóa theo kịp với thời đại, nghiên cứu sâu rộng về các tôn giáo
trên thế giới để nâng cao sự hiểu biết lên tầm mức quốc tế. Văn
hóa có nâng cao th́ việc truyền bá mới càng rộng khắp.
Lại có một người bạn khác lại hỏi tôi: “Khi đọc kinh sách Cao
Đài, tôi có cảm tưởng triết lư đạo quá cổ xưa, chưa thấy điểm
nào đáng gọi là mới. Tŕnh độ loài người th́ tiến lên như vũ
băo. Chỉ cần qua năm, mười năm, là một quan điểm kinh tế, chính
trị hay khoa học đă có thể trở thành lỗi thời.Trong điều kiện
như thế, Cao Đài có đảm đương nổi sứ mạng phổ độ toàn thế giới
không?”
Nhân câu hỏi này, xin mạn phép nêu vài ư kiến cá nhân ở đây về
những điểm mới trong triết lư Cao Đài để gọi là mở một hướng đi,
kêu gọi người chung chí hướng cùng tham gia làm giàu cho kho
tàng văn hóa của đạo Cao Đài.
Những điểm mới trong triết lư Cao Đài.
Thượng Đế
Điểm mới đầu tiên mà cũng là cốt lơi của Cao Đài chính là quan
điểm về Thượng Đế và mối quan hệ giữa Thượng Đế và con người. Từ
tạo thiên lập địa, con người đă có niềm tin vào Thượng Đế. Tất
cả những tôn giáo được các nhà nghiên cứu phương tây xếp vào
loại Độc Thần (monotheism) đều đồng thanh khẳng định Thượng Đế
tồn tại. Triết lư Cao Đài không phủ định điều này, hơn thế nữa
c̣n đưa ra những quan điểm trước kia vẫn c̣n tương đối xa lạ với
phần lớn các tôn giáo trên thế giới:
- Thứ nhất, Thượng Đế trong niềm tin của các tôn giáo trên trái
đất vốn là một. V́ khác biệt về chủng tộc và địa lư mà loài
người thờ phụng Ngài dưới những danh hiệu khác nhau, thậm chí
gán cho Ngài những tính chất khác nhau. Trước đạo Cao Đài, vào
thế kỷ 19 cũng có đạo Bahá’í khởi xướng quan điểm này. Đạo
Bahá’í, mang đậm nét văn hóa Ba tư, hiện cũng rất phát triển
trên thế giới.
- Thứ hai, lần đầu tiên trong lịch sử tôn giáo loài người, chính
Thượng Đế đến thế gian mở đạo. Trong các bậc giáo chủ từ trước,
chỉ có chúa Jesus xưng là con của Đức Chúa Trời, danh hiệu gần
gủi Thượng Đế nhất. Những vị c̣n lại th́ hoặc là những trí giả
hoặc là các bậc tiên tri có sứ mạng rao giảng và khởi xướng một
tôn giáo.
- Thứ ba, Cao Đài nêu lên quan điểm Thượng Đế và con người là
một. Đây là một điều mới mẽ chưa từng có trong bất cứ tôn giáo
nào từ trước đến nay. Thông thường, các tôn giáo cổ xem mối quan
hệ này tương tự như mối quan hệ giữa vua chúa và thần dân:
Thượng Đế khen thưởng người có đạo đức và trừng phạt kẻ vi phạm
những nguyên tắc đạo đức. Nghĩa là Thượng Đế và con người là hai
thành phần riêng rẽ và chỉ có quan hệ một chiều: Thượng Đế có
quyền lực chi phối đến mọi phương diện trong cuộc sống của một
cá nhân lúc c̣n sống cũng như sau khi chết.
Quan niệm
"Thượng Đế và con người là một”
của Cao Đài đưa đến những thay đổi to lớn trong tôn giáo: Thượng
Đế không giữ quyền khen thưởng và trừng phạt nữa, mà mỗi cá nhân
sẽ tự quyết định cho ḿnh. Thượng Đế cứu rỗi loài người không có
nghĩa là Ngài dùng quyền lực của ḿnh đem con người về cơi thiên
đàng giống như máy bay cứu nạn vớt người bị đắm tàu, mà Ngài chỉ
trao cho con người cách thức để tự cứu rỗi qua các h́nh thức tôn
giáo ở thế gian - thuật ngữ Cao Đài gọi là truyền Bửu Pháp. Như
vậy, con người đă được quyền quyết định kiếp sau của ḿnh, hay
nói cho đúng hơn theo thuật ngữ Cao Đài là: quyết định bước tiến
hóa của ḿnh trên Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống.
Triết lư dung hợp
Mọi tín đồ Cao Đài đều biết một nguyên lư của Cao Đài là “Tam
Giáo qui nguyên, Ngũ Chi phục nhất”, nhưng phần đông chỉ hiểu về
mặt ngữ nghĩa – từ ngữ Cao Đài gọi là hiểu theo Thể Pháp. Người
ta lập tức diễn giải ngay ra rằng Tam Giáo là Phật Giáo, Lăo
Giáo, Khổng Giáo và Ngũ Chi là Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo,
Tiên Đạo và Phật Đạo, và vội vàng kết luận rằng triết lư Cao Đài
là bao gồm triết lư của những tôn giáo vừa kể. Chẳng trách có
người gán cho Cao Đài là Phật Giáo cải cách, thậm chí là vay
mượn triết lư của tôn giáo khác như ví dụ ở đầu bài viết!
Nhưng thực ra, nếu hiểu theo đúng tinh thần nhị nguyên đối đăi
vẫn thường được tượng trưng qua các vế đối trong văn học cổ Việt
Nam th́ các tôn giáo nêu ra trong khẩu hiệu trên chỉ nhằm ám chỉ
chủ nghĩa dung hợp tôn giáo (syncretism) hay tôn giáo đa nguyên
(pluralism). Nghĩa là, Cao Đài xem mọi tôn giáo hoặc mọi hệ
thống tín ngưỡng đă có trên trái đất này đều do Thượng Đế gián
tiếp mở ra qua nhiều giai đoạn lịch sử. Dĩ nhiên với điều kiện
các tôn giáo này phải có nguyên tắc hành đạo không trái với
những luật lệ của Cao Đài. Chẳng hạn như, nếu có hệ thống tín
ngưỡng nào đó chủ trương điều ǵ có hại đến sinh mạng con người,
th́ sẽ không được xem là tôn giáo của Thượng Đế, bởi v́ hại sinh
mạng là vi phạm Ngũ Giới Cấm của Cao Đài. Tính ra trong lịch sử
loài người, chỉ đến thế kỷ 19 trở đi th́ quan niệm dung hợp
trong tôn giáo mới bắt đầu thành h́nh và hiện nay là quan điểm
hiện đại nhất.
Cũng xin nói rơ, dù có tôn chỉ đa nguyên, nhưng Cao Đài có hệ
thống tổ chức tôn giáo, nghi lễ, kinh luật và triết lư đặc thù
của ḿnh; không sử dụng của một tôn giáo nào khác.
Luân hồi là tiến hóa trong một vũ trụ vô hạn
Rơ ràng, cái chết là ranh giới, là kết thúc của sự sống, nhưng
sau cái chết là ǵ nữa th́ chưa một ai biết rơ. Và đây cũng
chính là nơi mà các tôn giáo đưa ra các giả thuyết. Đa số các
tôn giáo đều cho rằng có một cơi giới khác sau khi con người
chết đi, và cơi giới này chia ra làm Thiên Đàng (dành cho những
người làm điều thiện trong khi c̣n sống) và Địa Ngục (dành cho
những người làm điều ác tại thế). Những người ở địa ngục sau khi
chịu “h́nh phạt” một thời gian sẽ phải xuống trần gian đầu kiếp
để lập công chuộc tội…Con đường này gọi là luân hồi, và các tôn
giáo mở ra ở thế gian là nhằm giúp con người sau khi chết được
về cơi Thiên Đàng, không c̣n luân hồi nữa, tức là giải thoát.
Cao Đài đưa ra quan điểm mới về thuyết luân hồi, gọi đó là Con
Đường Thiêng Liêng Hằng Sống. Trên con đường này không có điểm
khởi đầu, cũng không có điểm kết thúc, chỉ có những chặng dừng
chân rải rác. Các chơn hồn (thuật ngữ Cao Đài để gọi linh hồn)
xuống thế gian, đầu kiếp vào một thể xác. Khi thể xác chấm dứt
sự sống, chơn hồn sẽ trở về Cơi Thiêng Liêng Hằng Sống, tự định
tội hay khen thưởng ḿnh. Sau đó, chơn hồn lại xuống thế gian để
tiếp tục tiến hóa cho đến tận thiện tận mỹ. Sự tiến hóa này
không có giới hạn, và để diễn tả điều này, Hộ Pháp Phạm Công Tắc
dạy rằng khi tiến hóa vượt mức, chúng ta thậm chí có thể mở ra
một vũ trụ mới và trở thành Thượng Đế trong vũ trụ đó.
Có thể nói rằng đây là một quan điểm tôn giáo rất cấp tiến. Với
quan điểm này, con người đă vượt ra khỏi số phận thụ động, vươn
lên điều khiển chính ḿnh. Con người không c̣n lầm lũi đi theo
con đường luân hồi khổ sai nữa, mà tích cực thẳng tiến trên Con
Đường Thiêng Liêng Hằng Sống nhằm tạo cho bản thân một sự nghiệp
thiêng liêng.
Triết lư Cao Đài có c̣n hợp với thiên niên kỷ mới hay không?
Người ta bảo rằng, với tŕnh độ hiện nay, loài người sẽ có nhiều
tiến bộ khoa học kỹ thuật vượt bực trong thiên niên kỷ mới. Điều
này có thể không cần bàn căi nữa, nhưng loài người vẫn c̣n phải
đối phó những vấn đề khác. Xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo,
khác biệt chính trị, va chạm quyền lợi kinh tế vẫn là những gai
góc trên con đường tiến bộ của loài người. Phương tiện giao tiếp
bây giờ phong phú và hiệu quả hơn ngày xưa, cho nên các dân tộc
tiếp xúc với nhau nhiều hơn, và cũng dễ va chạm hơn. Đôi khi
những va chạm này quá sức chịu đựng đến nỗi đi vào bế tắc và
người ta phải dùng đến chiến tranh để giải quyết vấn đề. Đây là
cách dễ làm nhất mà cũng là cách gây đau thương khốc hại nhiều
nhất.
Tuy nhiên, con người nay cũng đă khôn ngoan hơn trước, và thừa
khả năng để hiểu được chiến tranh không thể giải quyết tận gốc
mọi vấn đề. Cách lư tưởng để giải quyết mọi tranh chấp trên thế
giới ngày nay là: các dân tộc cần chấp nhận và tôn trọng lẫn
nhau. Cũng chính v́ điều đó mà triết lư dung hợp của Cao Đài vẫn
c̣n phù hợp trong thiên niên kỷ này và cả những thiên niên kỷ
sắp tới nữa.
Nếu loài người chấp nhận quan điểm chỉ có một Thượng Đế duy nhất
trong tất cả các niềm tin tôn giáo trên thế giới, th́ những khác
biệt về văn hóa, chủng tộc hay quan điểm chính trị sẽ bớt phần
khắc nghiệt. Con người sẽ dễ cảm thông hơn, dễ đối thoại, hợp
tác trong mọi lănh vực. Thù hận sẽ không có cơ hội phát triển và
quả đất này (Cao Đài gọi là địa cầu 68) sẽ là một nơi có cuộc
sống tốt đẹp hơn. Và, chúng ta, con cái của Đức Chí Tôn là những
người có nhiệm vụ làm cho nhân loại thấu hiểu triết lư Cao Đài,
nh́n nhau là anh em ruột thịt. Đó là lập công trong kỳ ba này
vậy!
Từ Chơn
Đầu xuân Mậu Tư (29/1/2008)