LÊ ĐẠO LONG VÀ VĨNH NGUYÊN TỰ
Thiên Vân
Đức Như ư Đạo Thoàn Chơn nhơn Lê văn Tiểng đạo hiệu Lê Đạo Long
Phật đường Vĩnh Nguyên Tự
Cổng Thánh Thất Vĩnh Nguyên Tự
Thánh Thất Vĩnh Nguyên Tự
Bữu tháp Ngọc Chưởng Pháp Trần văn Thụ
I.- LÊ ĐẠO LONG
Lê Đạo Long là đạo hiệu của Ngài Lê Văn Tiểng, sinh ngày 23
tháng 10 năm Quư Măo (1843) tại làng Long An, tỉnh Chợ Lớn, con
cụ ông Lê Phước Nghệ và cụ bà Nguyễn Thị Nguyện. Lớn lên Ngài
chán cảnh phù sinh nơi cơi thế, ham thích tu hành, nên t́m đến
thọ giáo với Đức Di Minh Tử Ngô Đạo Chánh và được truyền thừa
mối Đạo Minh Đường từ năm 1876, lúc ấy Ngài mới 34 tuổi . Từ đó
về sau, Ngài lo trau luyện tâm tánh, chuyên tâm tu hành đạt đến
bậc phẩm Thái Lăo Sư.
Đến năm 1908 v́ mong muốn có phương tiện để phổ độ cho nhơn sanh
khắp vùng, nên Ngài lấy tài sản riêng của ḿnh để xây cất lên
ngôi Phật Đường , đặt tên là Vĩnh Nguyên Tự do Ngài Trụ Tŕ. Tại
đây, Ngài có dạy nhiều môn đệ, tu đến phẩm Thái Lăo Sư trong đó
có các vị: Trần Đạo Minh, Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Đạo Chí…
Hành đạo nơi đây một thời gian, đến ngày 3 tháng 12 năm Quư Sửu
(1913), Ngài Lê Đạo Long cho người gọi tất cả con cháu tề tựu
đầy đủ và các đệ tử cũng có mặt tại Vĩnh Nguyên Tự, đặc biết
nhứt là có mặt chủ quận Cần Giuộc là Tri phủ Huỳnh Khắc Thuận.
Sau khi dạy những lời di chúc và kư thác mọi việc, Ngài tắm gội
tinh khiết, làm lễ Thiêng liêng. Đến 7 giờ Ngài trút hơi thở
cuối cùng nơi Phật đường di hài của Ngài được an táng phần đất
phía sau Vĩnh Nguyên Tự.
Sau ngày Thái Lăo Sư Lê Đạo Long quy Thiên, người con là Lê Văn
Lịch tu đến bậc Dẫn Ân (nhị thừa), nối tiếp Đạo nghiệp của cha,
đứng ra trụ tŕ ngôi Vĩnh Nguyên Tự.
Lúc sanh tiền, Ngài Lê Đạo Long có tiên tri rằng:
"Vĩnh Nguyên Tự là nơi "
Thập Nhị Khai Thiên của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hoằng khai chánh
pháp chơn truyền sau này”.
Ngày 20 tháng 1 năm Bính Dần (Dl 4/3/1926) Đức Chí Tôn muốn độ
ông Lịch nên sai ba vị tiền khai Đại Đạo là Lê Văn Trung, Cao
Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc đến Vĩnh Nguyên Tự lập đàn cơ, có sự
hiện diện của ông Phủ Nguyễn Ngọc Tương. Hôm ấy, Thái Lăo Sư Lê
Đạo Long được Đức Chí-Tôn cho phép nhập cơ báo cho quí vị đang
tu tại Vĩnh Nguyên Tự biết
rằng Ngài đă đắc quả Như
Ư Đạo Thoàn Chơn Nhơn tại Tây Phương Cực Lạc và khuyên chư môn
đồ nơi đây nên chuyển qua tu theo Đạo Cao-Đài của Đấng
Thượng-Đế.
Đức Cao Đài giáng dạy như sau:
Hảo Thánh tâm! Hảo Thánh
tâm!
Lịch, Ta thâu nạp ngươi làm môn đệ. Ta cho Tiểng là cha của
ngươi nhập cơ.
Trung, Tương đứng.
Sau khi Đức Chí Tôn thăng, kế tiếp, Đức Như Ư Đạo Thoàn nhập cơ
dạy như sau:
“Lịch, thính ngă. Ngă thị nễ phụ, thọ mạng Cao-Đài Tiên-Ông viết
Ngọc-Hoàng-Thượng-Đế Giáo Đạo Nam Phương. Tiền nhựt ngă thọ giáo
Minh Đường. Đại-Đạo thị chi nhứt dă. Nội Ngũ Chi Đại-Đạo, thọ
phong Trung quốc vi Đại Lăo. Dục thọ Thiên ân nhơn bất đắc kỳ
truyền, ngă luyện thế thường t́nh chi giáo. Đạo thị vô vi tức
hữu vô hinh chi sự giáo hóa. Ngă bất ngộ dă, bất đắc kỳ truyền.
Ngọc Đế cảm xúc công quả thậm đa, bất lưu luân hồi tại thế, phú
Thái Ất Chơn Quân độ dẫn, thọ sắc Như Ư Đạo Thoàn Chơn Nhơn tại
Tây Phương Cực Lạc. Nhữ ngộ minh sư tu luyện, đương cầu giáo hóa
dă.
Thị nhứt sư Ngọc-Hoàng-Thượng-Đế. Khâm thử, Khả cầu. Đại hỷ! Đại
hỷ!”
Bài Dịch ra Nôm: (Lịch
hăy nghe ta. Ta là cha của ngươi, nhận mạng lịnh của Đấng
Cao-Đài Tiên-Ông gọi là Ngọc-Hoàng Thượng Đế dạy đạo ở nước Việt
Nam. Ngày trước, ta thọ giáo nơi Minh Đường. Đại-Đạo và Minh
Đường là một vậy. Trong Ngũ Chi Đại-Đạo, ta được thọ phong từ
Trung Quốc làm chức Đại Lăo Sư. Muốn thọ ơn Trời, v́ không được
chơn truyền, ta luyện đạo theo giáo pháp thường t́nh của thế
gian.
Đạo là vô vi, tức là có các Đấng vô h́nh chỉ dạy các việc. Ta
không gặp vậy, nên không được chơn truyền. Đấng
Ngọc-Hoàng-Thượng-Đế cảm xúc công quả của ta rất nhiều, không để
ta luân hồi trở lại thế gian, giao cho Thái Ất Chơn Quân độ dẫn
ta, nên được sắc phong Như Ư Đạo Thoàn Chơn Nhơn tại cơi Tây
Phương Cực Lac. Ngươi gặp minh sư dạy tu luyện, hăy thỉnh cầu
Ngài giáo hóa vậy. Chỉ có một Thầy là Ngọc-Hoàng-Thượng Đế. Hăy
kính dâng theo. Khá cầu dạy Đạo. Rất mừng! Rất mừng!).
II.- TIỂU SỬ LÊ VĂN LỊCH
Lê Văn Lịch, đạo hiệu là Thạch Ẩn Tử, sinh ngày mùng 1 tháng 9
năm Canh Dần (Dl 14-10-1890) tại làng Long An, quận Cần Giuộc,
tỉnh Chợ Lớn. Thân sinh của ông là Cụ Lê Văn Tiểng (đạo hiệu Lê
Đạo Long), tu đến bực Thái Lăo Sư của Chi Đạo Minh Sư, là người
đă lập ngôi Vĩnh Nguyên Tự ở Cần Giuộc, và thân mẫu là Cụ Bà
Trần Thị Đắc. Hiền nội ông Lê Văn Lịch là Bà Trần Thị Khá, con
gái của Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ (cũng là vị đại đệ tử
của Ngài Lê Đạo Long). Lê Văn Lịch có một người con gái là Cô Lê
Ngọc Trang, Đạo hiệu là Bạch Tuyết.
Đầu năm Bính Dần 1926, quư Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc
được lịnh Đức Chí Tôn dạy phải xuống Vĩnh Nguyên Tự lập đàn cầu
cơ, để Đức Như Ư Đạo Thoàn Chơn Nhơn giáng cơ dạy ông Lịch, lúc
bấy giờ đă tu tới bực Dẫn Ân (Minh Đường), phải hiệp với quư
Ngài Cư, Tắc để khai mở Đạo Cao Đài.
Sau đó ngày 26 tháng 2 năm Bính Dần (Dl 8/4/1926), tại Vĩnh
Nguyên Tự, Đức Thích Ca Mâu Ni giáng cơ bằng Hán văn dạy rằng:
Chuyển Phật Đạo, Chuyển Phật Pháp, Chuyển Phật Tăng, Qui nguyên
Đại Đạo, Tri hồ chư chúng sanh?
Khánh hỷ! Khánh hỷ! Hội đắc Tam Kỳ Phổ Độ, chư Thần, Thánh,
Tiên, Phật, đại hỷ phát đại tiếu!
Ngă vô lự Tam đồ chi khổ. Khả tùng giáo Ngọc Đế viết Cao Đài Đại
Bồ Tát Ma Ha Tát.
Bài dịch ra Nôm: Chuyển
Phật Đạo, Chuyển Phật Pháp, Chuyển Phật Tăng, chuyển Phật giáo
trở về gốc của nền là Đại Đạo. Chúng sanh biết chăng?
Vui mừng thay! Vui mừng thay! Gặp được Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ,
Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật rất vui mừng, Phát cười lớn!
Ta không lo cái khổ của ba đường luân hồi. Khá theo lời dạy của
Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, là Cao Đài Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Sau đó, tiếp theo là Đức Chí Tôn dạy:
“Lịch! Con nghe Phật Như
Lai nói chưa? Tam Kỳ Phổ Độ là ǵ? Là Phổ Độ lần thứ ba.
Sao gọi là Phổ Độ? Phổ Độ nghĩa là ǵ? Phổ là bày ra. Độ là ǵ?
Là cứu chúng sanh.
Muốn trọn hai chữ Phổ Độ, phải làm thế nào? Chúng sanh là ǵ?
Chúng sanh là toàn cả nhơn loại chớ không phải lựa chọn một phần
người, như ư phàm tục các con tính rỗi.
Muốn trọn hai chữ Phổ Độ, phải làm thế nào? Thầy hỏi? Phải bày
Bửu pháp chớ không đặng giấu nữa. Con phải luyện lại cho thành,
nội trong tháng 5 nầy về theo Trung đặng đi truyền đạo.
Nghe và tuân theo”.
Qua đêm 12 tháng 3 năm Bính Dần (Dl 23/4/1926), ông Lê Văn Lịch
được Đức Chí Tôn giáng cơ ân phong làm Ngọc Đầu Sư, Thánh
danh Ngọc Lịch Nguyệt, cùng một lượt với Đầu Sư Thượng
Trung Nhựt, trong cuộc Lễ Thiên phong đầu tiên tổ chức tại
nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn.
Ông Lê Văn Lịch lúc mới thọ phong chỉ là một tu sĩ nhỏ tuổi, nên
có nhiều người không vừa ḷng ông ngồi ở địa vị ấy. Trong quyển
Tiểu Sử Đức Quyền Giáo Tông, do Hội Thánh ấn hành năm Quư Sửu
(1973), có một đoạn Thánh giáo của Đức Chí Tôn nói về Đầu Sư
Ngọc Lịch Nguyệt như sau:
Nếu Thầy không chuyển pháp lại th́ chưa ai tu đặng trọn đạo, nên
Thầy lựa Ngọc Đầu Sư trong hạng thiếu niên mới có đủ công phổ
độ.
Trong phần nhiều các con chưa vừa ḷng cho Lịch ngồi địa vị ấy,
cho nên có điều cản trở trong sự truyền đạo. Thầy cũng nh́n như
vậy, song v́ tiền kiếp Lịch và nhơn đức Tiểng, nên Thầy mới phú
thác cái trách nhiệm tối đại ấy cho nó.
Thời gian đầu khi mới khai Đạo, ông Ngọc Lịch Nguyệt được lịnh
Đức Chí Tôn dạy t́m chọn ba bài kinh Tam giáo để làm kinh tụng
của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. ông cùng với Đầu Sư Thượng Trung Nhựt
phụng soạn quyển “Tứ Thời Nhựt Tụng”, trong đó các bài kinh được
in bằng chữ Nho, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và được ban hành vào năm
Mậu Th́n, 1928.
Vào năm 1934, hai ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang tách khỏi
Toà Thánh Tây Ninh th́ Ngọc Lịch Nguyệt cũng rời Toà Thánh, để
trở về Vĩnh Nguyên Tự tu hành.
Năm 1943, ông bị nhà cầm quyền Pháp bắt đày đi Côn Đảo, đến năm
1945, ông mới được trả tự do trở về.
Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt bị sát hại trong cuộc chiến chống Pháp
xâm lược của phong trào Việt Minh, ông liễu Đạo tại Chợ Lớn ngày
2 tháng 9 năm Đinh Hợi (Dl 15/10/1947) thọ 58 tuổi.
Mộ của ông Lê Văn Lịch hiện đặt tại phần đất phía sau chùa Vĩnh
Nguyên Tự, gần mộ của thân phụ ông là Cụ Lê Văn Tiểng.
III.- VĨNH NGUYÊN TỰ
Vĩnh Nguyên Tự trước đây là một ngôi chùa Phật thuộc phái Minh
Đường do Ngài Thái Lăo Sư Lê Đạo Long tự dùng phương tiện riêng
của ḿnh tạo dựng vào năm Mậu Thân (1908) tại xă Long An, quận
Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (nay là huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.
Tại đây, lúc sinh tiền Ngài Lê Đạo Long có thâu nhận và dạy một
số môn đồ, người đệ tử
lớn nhứt của Ngài là Trần Văn Thụ, pháp danh Trần Đạo Minh (cũng
là nhạc phụ của ông Lê Văn Lịch), tu đến phẩm bậc Thái Lăo
Sư.
Đến năm Bính Dần (1926), tức là sau khi Thái Lăo Sư Lê Đạo Long
liễu đạo, Ngài có giáng cơ khuyên các đệ tử hăy tùng giáo theo
Đức Cao Đài Ngọc Đế. Trần Văn Thụ vâng theo lời dạy của Đức Như
Ư Đạo Thoàn, nhập môn vào đạo Cao Đài. Từ đó,
ngôi Vĩnh Nguyên Tự trở
thành cơ quan của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thuở đầu tiên và sau nầy
trở thành Thánh Thất của Đạo Cao Đài gọi là Thánh Thất Vĩnh
Nguyên Tự.
Chính tại Thánh Thất nầy vào đêm mùng 10 tháng 9 năm Bính Dần
(Dl 16/10/1926) ông Trần
Văn Thụ (pháp danh Trần Đạo Minh) được Đức Chí Tôn giáng cơ ân
phong là: Nho Tông Chưởng Giáo Tuyên Đạo Thiền Sư Đại Đức Đại
Ḥa Đạo Sĩ: Chưởng Pháp phái Ngọc.
Kể từ khi Trần Văn Thụ thọ phong Ngọc Chưởng Pháp, ông vâng lịnh
Đức Chí Tôn, cùng với các vị Chức sắc Thiên phong khác lo đi
hành đạo, phổ độ nhơn sanh. Khi làm lễ Khai Đạo tại Thánh Thất
tạm ở Chùa Từ Lâm Tự (chùa G̣ Kén, Tây Ninh), ngày 15-10-Bính
Dần (1926) th́ Ngọc Chưởng Pháp thường xuyên hành đạo tại đó, để
cùng quí Chức sắc cao cấp khác soạn thảo Tân Luật theo lịnh dạy
của Đức Chí Tôn.
Qua năm sau, tức là năm Đinh Măo (1927), Trần Văn Thụ lâm bịnh
nặng, ông trở về nhà an dưỡng tại làng Trường B́nh, quận Cần
Giuộc, sau đó ông đăng Tiên vào ngày 14-5-Đinh Măo (dl
13-6-1927), hưởng thọ 71 tuổi.
Đám tang của Ngọc Chưởng Pháp có mặt đầy đủ các bậc tiền khai
của Đạo như Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt,
Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh, Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh,
Phối Sư Thái Ca Thanh, cùng nhiều Chức sắc khác đến thọ tang và
phúng điếu.
Bởi cơ Đạo c̣n sơ khai, đang tạm ở Từ Lâm Tự, nên gia đ́nh Ngọc
Chưởng Pháp Trần Văn Thụ phải đưa linh cữu của ông an táng nơi
quê nhà ở làng Thới Hiệp, cạnh ngôi chùa cũ của ông, nay là Ấp 1
Xă Hiệp Phước, quận Nhà Bè.
Năm 1996 (Bính Tư), Ban Cai Quản Thánh Thất Vĩnh Nguyên Tự đă
lấy cốt của Ngọc Chưởng Pháp Trần Văn Thụ đem cải táng về đất
phía sau Vĩnh Nguyên Tự, nằm cạnh ngôi mộ của Ngài Thái Lăo Sư
Lê Đạo Long.
Hiện nay di ảnh của Ngọc Chưởng Pháp được thờ nơi Hậu Điện Vĩnh
Nguyên Tự, cùng với di ảnh của Đức Như Ư Đạo Thoàn Chơn Nhơn và
của Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.
Mặc dầu ngôi Vĩnh Nguyên Tự đă quy hiệp về Cao Đài và trở thành
Thánh Thất từ năm 1926 , nhưng h́nh dáng vẫn là ngôi chùa Phật y
như cũ, tuy nhiên trải qua gần sáu mươi năm dăi dầu mưa nắng,
ngôi chùa xưa xuống cấp, hư hỏng quá nhiều. Cuối năm Canh Tuất
(tháng 4-1970), Đức Chí Tôn ban ơn cho họ đạo Vĩnh Nguyên Tự
hiệp sức chung ḷng cùng Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lư xúc tiến công
cuộc tái thiết Vĩnh Nguyên Tự. Mọi việc lớn nhỏ từ lúc khởi công
cho đến khi hoàn tất, làm lễ khánh thành, thảy thảy đều thuận
theo lẽ Thiên nhân hiệp nhất. Ngôi Thánh Thất Vĩnh Nguyên Tự
được tái thiết và khánh thành vào ngày 13 tháng 3 năm Quư Sửu
(Dl 06/4/1973) cho đến ngày hôm nay.
Thiên Vân
(03/7/2020)