ĐỨC TIN VÀ ĐẠO PHÁP.
Phạm Thanh B́nh
Đức tin
và Đạo pháp là hai
điều kiện cần thiết cho một người học Đạo. Thiếu một trong hai
không thể giúp con người thành công, trái lại làm cho họ hoài
nghi; vốn đang trong ṿng hoài nghi càng thêm hoài nghi. Tại sao
tôi đưa hai phạm trù này vào chung một chủ đề. Đó là điều kiện
ắt có và đủ cho một người trọn lành. Có người chỉ muốn hạnh phúc
lên thiên đàng chỉ bằng đức tin thôi, không thực hành ǵ. Có
người dày công học Đạo mà không tin tưởng lại muốn lên Cực Lạc
thế giới. V́ thế hôm nay tôi xin tham gia t́m hiểu hai chủ đề
cùng lúc.
Sự hiện hữu của thế giới vật chất trong vũ trụ măi c̣n là một bí
ẩn. Các khoa học gia đă, đang và sẽ t́m và t́m măi nguồn gốc
cùng sự biến đổi của nó. Càng ngày các chuyên gia t́m hiểu đă
phát hiện thêm những điều mới thuyết phục hơn những lư thuyết đă
t́m thấy trước? Đó sẽ là một bản trường
ca của
dấu chấm hỏi bất tận.
Gói gọn để xét những công tŕnh khoa học, nguyên lư khoa học,
những định luật khoa học v.v…, ta đặt câu hỏi: những định luật,
những nguyên lư khoa học được đặt tên chính nhà khoa học t́m ra
nó, là do nhà khoa học ấy tạo
hay có sẳn trong tự nhiên mà t́m được?
Định luật hấp dẫn do Newton tạo ra hay t́m ra? Trước khi Newton
ra đời trên hành t́nh tinh này, có định luật hấp dẫn hay không?
Rồi tương tự như vậy, những định luật khác nữa của Archimede,
của tất cả các khoa học
gia, do họ tạo ra hay là phát hiện cái có sẳn trong thiên nhiên
tự nhiên? Những khám phá khoa học đó sẽ c̣n và c̣n măi đến vô
cực, tức không bao giờ chấm dứt. Nói cho cùng các nhà khoa học
không phải ngẫu nhiên mà t́m lượm được một định luật hoàn hảo.
Dựa vào đức tin nên cố gắng măi mới thành công, không có đức tin
họ không làm được ǵ. Qui Luật và trật tự trong vũ trụ được lập
tŕnh hoàn hảo có sẳn trong thiên nhiên. Vật xuống nước bị đẩy
lên, nước sôi phải 100 độ C, nước đóng băng đang tan phải không
độ C. Quả đất quay chung quanh mặt trời phải 365 ngày ¼, không
hơn cũng không ít lại…Ai đă lập tŕnh nên? Có con người đó hay
không? Câu hỏi này được hai trường phái duy vật và duy tâm thi
nhau t́m câu giải đáp. Sự vận hành và phát triển của vũ trụ tại
sao lại phối hợp hài hoà giữa mỗi cá thể trong một tổng thể.
Có những lư thuyết được đưa ra trong một thời gian không gặp
phản đối, con người tự khẳng định là chân lư. Rồi dần dà cũng bị
đanh đổ với lư thuyết mới. Như vậy chân lư của vũ trụ vẫn măi
c̣n trong màn bí mật. Lư thuyết thuỷ tổ loài người là loài vượn
cũng nằm trong số phận bị đánh đổ ấy. Thôi th́ chuyện dó đễ cho
những nhà khoa học tiếp tục dấn thân. Trên lănh vực đức tin tôi
xin đôi điều t́m hiểu đóng góp.
Khi nghiên cứu về
Đức-Tin, chúng tôi không nên trích dẫn những câu nói kinh
điển của tôn giáo để tránh ngộ nhận. Nhưng không có câu nói nào
ngoài tôn giáo diễn được ư gần nhứt với tự nhiên như của Đức
Phật Thích Ca: “Đức Phật hái một nắm lá cây rừng rồi bảo các đệ
tử, những điều ta dạy các ngươi như nắm lá trong tay ta. Những
điều ta chưa dạy các ngươi c̣n như lá trong rừng cây vậy.”. Câu
danh ngôn: “Những điều đă biết như những giọt nước. Những điều
chưa biết như cả một đại dương”.
Những sự kiện hiển nhiên sau đây dù là người vô thần không tin
có Thượng Đế cũng phải công nhận: Trong mỗi cá nhân con người
nhứt thiết phải có đủ hai phần: một phần thấy được và phần vô
h́nh không thấy được. Phần thấy được là thể xác, có đầy đủ cơ
quan bộ phận h́nh hài đủ đầu ḿnh và tứ chi. Phần không thấy
được, tuy không có h́nh ảnh, không nhận thức được bằng giác quan
ai cũng tự đều thấy rằng có hiện hữu, không một ai phủ nhận: Đó
là phần BIẾT và LINH. Cái Biết và cái Linh là hai thực thể nằm
trong trạng thái vô h́nh ảnh nhưng không phải chung nhau một
khối. Nó độc lập riêng biệt, đôi khi phản trắc cùng nhau nữa!
BIẾT: ấy là khả năng nhận được thế giới vạn vật với đầy đủ đặc
tính của nó. Cái Biết do học hỏi tấn hoá phát triển lên, tức do
tiếp xúc với hữu h́nh theo định luật lục căn tiếp xúc lục trần
sanh lục thức mà có. Trong Đạo học gọi đây là
trí-hữu-sư.
LINH: là khả năng phê phán phân biệt và lựa chon giữa thiện và
ác, tốt và xấu. Cái Linh lúc nào cũng điều khiển cái Biết để
hướng Thiện bỏ Ác,
chọn Tốt xa Xấu. Cái
Biết th́ không như vậy, gặp ǵ có lợi cho bản thân vị kỷ th́
chọn dù cho tốt hay xấu, thiện hay ác. Cái Biết và cái Linh
chẳng khi nào đồng thuận. Chúng luôn đấu tranh lẫn nhau. Nếu cái
Biết thắng cái Linh con người sẽ hướng sự lựa chọn về nhục dục
thấp hèn hướng ác. Ngược lại cái Linh thắng cái Biết, con người
hướng tâm linh cao thượng đầy công b́nh và bác ái. Đó là
trí-vô-sư. Không do
học mà có.
Ví dụ dẫn chứng:
1-Đứng trước một bệnh căn bệnh hiểm nghèo, bệnh nhân vô cùng khổ
sở đau đớn, vị bác sĩ Nguyễn Văn X với cái vốn học hỏi, và kinh
nghiệm có thể đem
áp dụng để cứu sống bệnh nhân ấy. Hoặc có thể giết chết bệnh
nhân ấy mà không chịu trách nhiệm. Đứng trước sự phải lựa chọn,
bác sĩ X và 100% các bác sĩ khác đều chọn phải cứu sống bằng mọi
giá. Không được giết chết họ. Giết chết một bệnh nhân lương tâm
không cho phép. Lương tâm không cho phép bác sĩ chọn điều ác ấy.
Sự lựa chọn dó do trí vô sư của bác sĩ điều khiển trí hữu sư của
bác sĩ thực hiện.
2-Một kẻ cướp vào nhà, tàn sát tất cả để lấy của cũng được trí
vô sư ấy ngăn cản, nhưng trí hữu sư của họ không nghe cuối cùng
họ vẫn ra tay giết người. Cái Biết và cái Linh của bác-sĩ và kẻ
cướp đang đấu nhau. Một đàng th́ Biết
thắng và một đàng th́
Linh thắng. “Tâm sát cảnh là Thánh. Cảnh sát tâm là phàm” (kinh
Phật).
3-Một con vật như chó hay khỉ có tánh rất khôn ngoan, nhưng chó
và khỉ không biết phân biệt được tốt hay xấu và thiện ác. Chó và
khỉ có thể ân ái với bạn t́nh trước công cộng không mảy may xấu
hổ. Con người th́ không thể. Khỉ và chó có thể học được nhiều
thứ, diễn nhiều thứ trong đoàn xiếc. Đó chỉ tiếp thu được trí
hữu sư. Cái Linh- trí vô sư- không có. Trí vô sư chỉ có nơi con
người mà thôi.
4-Phát hiện ra nguyên tử, có nhà khoa học đem áp dụng vào
đời sống làm năng lượng giúp nhơn loại sống sung sướng hạnh
phúc. Cũng có nhà khoa học đem áp dụng làm vũ khí giết người
hằng loạt cho con người đau khổ thêm lên.
Trí hữu sư
thoát thai từ vật chất do theo thể xác tấn hoá thêm lên, c̣n
Trí Vô Sư có nguồn
gốc khác ngoài thân không do người tạo hay học hỏi, tích luỷ
được.
Các tôn giáo xưa xếp chung hai thể vô h́nh: trí vô sư và trí hữu
sư của một con người làm một gọi là
hồn vô h́nh, song
song với xác hữu h́nh. Quan điểm đó đưa ra một lỗ hỏng to lớn
khủng hoảng lư luận khiến cho các
nhà trí thức vô thần có cửa chen vào phản bác và trích
điểm. Thật sự con người có cả ba thể cùng tồn tại không thể
tranh cải.
Các nhà duy vật trong lư
thuyết của họ cũng chỉ biết đến có yếu tố Vật chất và ư-thức mà
thôi. Ư thức sẽ không có chỗ thể hiện ra ngoài khi vật chất bị
hư hoại. Ư thức không tiêu tan khi vật chất tan rả. Trí khôn
tích luỷ của con người sẽ làm hạt giống tồn tại để gieo trồng
mùa vụ tới khi có duyên hợp nên con người có hạng hiểu mau, hiểu
chậm và không hiểu một vấn đề cùng Thầy giảng dạy. Cái Linh của
một con người không do vật chất tạo nên, nó không phát sanh
hay mất đi theo vật
chất. Cái xác thân
và cái hiểu biết của mỗi con người có cấu tạo bằng tinh chất
giống nhau nên có thể xét nghiệm thấy được. Cái linh của con
người không ai giống ai. Sanh cùng năm học cùng lớp cùng thầy
vẫn không phát triển đồng đều.
Tôn Giáo Cao Đài gọi ba vật thể đó là
Tam-Thể Xác-Thân có
xuất xứ từ ba nguồn cội khác nhau. Khái niệm Tam Thể Xác Thân
chỉ được truyền dạy nhơn loại trong đầu thập niên 30 thế kỷ 20
khởi đầu cho
các tín hữu Cao Đài tại miền nam Việt Nam.
Người trí thức hữu thần có đức tin luôn t́m kiếm để hiểu cho rơ
ràng. C̣n người trí thức vô thần không có đức tin th́ luôn bài
bác phản đối và trích điểm. Họ cố gắng trích điểm không v́ mục
đích phát triển hiểu rơ mà nhằm mục đích bắt bí người kém đức
tin để lôi kéo họ vào
cơn lốc hoài nghi làm mất đức tin sống và sinh hoạt theo vật
chất.
Trước t́nh huống đó, gần 400 năm trước (1623-1662) nhà bác học
Blaise Pascal một
nhà toán học có tín ngưỡng đưa
ra một công thức đánh
cuộc trong tác phẩm LA PENSÉE vô cùng khách quan để cho
những ai chưa đủ sức t́m ra chân lư tạm tin vào công thức ấy mà
quyết định. Công thức này có thể áp dụng để t́m hiểu mọi lảnh
vực mọi thời đại cho đến khi Vũ Trụ không c̣n bí mật. Nó không
gói gọn trong t́m hiểu về Đức Thượng Đế mà thôi.
Tính tất yếu của sự đánh cuộc, con người không thể chứng minh
được “Đấng Tạo
Hoá hiện hữu hay không hiện hữu”. Chọn lựa thế nào cho
vấn đề “Tin hay không Tin”?
Có 4 khả năng xảy đến:
1-Tin vào
Đấng Tạo Hoá
hiện hữu:
Tin là một sự chấp nhận vượt khả năng lư trí, nhưng hoàn toàn
tín thác vào may mắn. Nếu thật sự
Đấng Tạo Hoá hiện
hữu, th́ phúc lộc của con người là vô hạn. Hiệu quả có thể thấy
ngay ở đời này, khi con người chúng ta sống theo những lời mời
gọi của Đấng Tạo Hoá,
chúng ta được lănh nhận sự b́nh an và niềm vui trong mọi hoàn
cảnh.
2-Tin vào
Đấng Tạo Hoá
không hiện hữu:
Chúng ta bị lừa dối, một sự lừa dối lớn nhất trong cuộc
đời chúng ta, dù sao tổn thất này cũng chỉ trong giới hạn phận
người của chúng ta, chúng ta không thể chịu tổn thất vô hạn.
3-Không tin vào
Đấng Tạo Hoá
hiện hữu:
Sự kiện này nếu xảy ra nơi chúng ta th́ mất mát rất lớn, mất cả
sự sống đời đời. Không tin vào
Đấng Tạo Hoá, chỉ
c̣n lại chỉ tin vào những thực tại của trần thế này. Thực tại
trần thế này đang cho chúng ta thấy tính bấp bênh của nó.
không có giá trị ǵ bền vững. con người sẽ lẩn quẩn không
lư tưởng cuối cùng chết trong cái nhà tù trần gian của ḿnh, và
thấy đời vô nghĩa.
4-Không tin vào
Đấng Tạo Hoá
không hiện hữu:
Đấng Tạo Hoá
không có thật và chúng ta cũng không tin. Khả năng này có thể
xảy ra đi chăng nữa cuộc đời này không cần thiết phải xây dựng
sự thiện, kết quả của trần thế này đang là một hoả ngục.
Chúng ta sẽ không được
một chút lợi lộc nào trong sự không tin này. Có thể đưa vào sơ
đồ như sau:
Đấng Tạo Hoá
|
Có
|
Không có
|
Tin
|
Quá tuyệt vời (Lời to)
|
Không có ǵ hại (huề)
|
Không tin
|
Bị thiệt tḥi quá to (lỗ)
|
Không có ǵ lợi (huề)
|
Ư chính của thuyết đánh cược này, theo Pascal, người ta không
thể biết đến sự tồn tại của
Đấng Tạo Hoá
đấng siêu nhiên chỉ bằng lư trí
không thôi. Nên cần phải sống một cuộc đời như thể các vị Giáo
Chủ dạy thực sự là
điều khôn ngoan, v́ sống như thế mới có thể đạt được mọi thứ mà
không mất mát ǵ cả. Nếu chúng ta sống như thể
Đấng Tạo Hoá
tồn tại, và Ngài thực sự tồn
tại, chúng ta sẽ được lên thiên đàng. Nếu Ngài không tồn tại,
chúng ta cũng chẳng có ǵ để mất. Mặt khác, nếu chúng ta sống
như thể Đấng Tạo
Hoá không tồn tại mà Ngài
lại thực sự tồn tại, chúng ta phải bị đại thiệt tḥi, sẽ chẳng
nhận được thiên đàng và niềm vui thỏa.
Thuyết đánh cược này có thể nói là một công thức lựa chọn cho
bất cứ trường hợp đều hữu ích, không chỉ nằm trong đức tin tôn
giáo. Không có công
thức nào hiện có khả dĩ bằng hay tốt hơn để chứng minh. Trong
khi con người chờ có phương hay hơn tại sao ta không làm phép
thử lựa chọn thay v́ bó tay ngồi chờ? Giữa sa mạc biết không thể
t́m nước sao không chọn cách
đi t́m mà ngồi chịu chết khát?
Không hiểu sao những nhà truyền giáo của Giáo Hội La Mă thời
trước kia không tŕnh bày luật
Nhơn Quả như vậy sẽ thuyết phục hơn những người không tin tưởng.
Nếu được lên Thiên Đàng bằng đức tin đơn giản mà không làm ǵ cả
th́ sự công bằng có được bền vững chăng?
Trở lại vấn đề đức tin trong những con người hữu thần lẫn vô
thần
Đức Hộ Pháp Giáo chủ Đạo Cao Đài có giải thích như sau:
“…Thoảng
có một vị tu chơn theo Phật-Giáo, chẳng noi theo tánh đức nhà
Phật là Từ-Bi Bác-Ái, chỉ biết một điều trọn kiếp sanh đem thân
phụng sự cho nhơn-loại, cho chúng- sanh. Sang, trọng, vinh, hiển
họ coi như nước chảy, như giọt sương đầu cỏ. …”
“…Thoảng một vị Giáo-đồ nhà Phật
lấy căn bản hành-khất ấy đặng tạo một cảnh chùa rồi ngồi đợi
chúng-sanh đem của bố-thí tới đặng ăn mà sống, ngoài ra nữa, c̣n
lường gạt tâm-lư của các Tín-Đồ, đem cả mầu-nhiệm Thiêng-Liêng
của Phật dạy làm một món khí cụ đặng dọa nạt, hù nhát kẻ Tín-Đồ,
duy có một phương hù nhát mà thôi. Lập ra cửa Phong-Đô có h́nh
khảo ghê sợ đặng dụ-dỗ họ nơi Niết-Bàn mà kỳ trung chưa hề
phụng-sự chúng-sanh như …
“…Thoảng
các môn-đệ của Ngài về tới Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa nói: Tôi
thương chúng-sanh như Thầy tôi, tôi noi theo chơn-truyền của
Thầy tôi tức là Đức Chúa Jésus Christ, tôi cũng đem mảnh tâm
đặng hiến cho Chí-Tôn vậy, nhưng tinh-thần của họ không mảy may
yêu-ái chúng sanh, trái lại họ cầm quyền-năng gọi là nhơn danh
Đức Chúa Trời tha tội cho nhơn-loại, cầm quyền ấy đặng vi-chủ
tinh-thần loài người…”
“..Nói đến Trí:
Khổng-Giáo lấy Trí làm căn bản, Trí thực muôn h́nh ngàn trạng,
đem cái triết-lư cao siêu ra tạo xă-hội nhơn-quần không phải dễ.
Đức Khổng-Phu-Tử phải dùng Trí đặng tự-tu kỳ thân. Có tự-tu kỳ
thân đặng mới đủ quyền-năng yêu-ái giáo-hóa các chơn-linh tức là
các nhơn-loại đặng trọn lành, đến tột bực lành là Chí-Thiện.
Trái ngược lại môn-đồ của Ngài nương nơi trí-giác ấy làm căn
bản, học nhiều thấy rộng, nói cho hay cho khéo, lấy cả tinh-thần
cao thượng đặng hài-hước nơi lỗ miệng, c̣n thật chơn-lư không ai
làm đặng. ..”
“…Trong ba bằng cớ vừa kể
đó Bần-Đạo quả quyết rằng, các vị Giáo-Chủ đă tạo ra các nền
Tôn-Giáo, tinh-thần của họ cũng chỉ biết phụng-sự cho nhơn-loại.
Mà hại thay! hại thay! Cơ- quan của họ đào tạo tinh-thần của
loài người với tinh-thần trí-thức của họ, họ chịu khổ hạnh, muôn
cay ngàn đắng, trọn kiếp sanh đào tạo cho đời, rốt cuộc cả
triết-lư Đạo-Giáo thay v́ tạo hạnh-phúc cho nhơn-loại, trái
ngược lại đă làm khí cụ cho kẻ vô tâm lợi dụng đặng lường gạt
tinh-thần nhơn-loại hơn nữa. Thay v́ làm phước họ đă làm tội.”
(trích Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp bài 30 Con Đường Thiêng
Hằng Sống)
Chưa hẳn những điều không nhận được bằng giác quan là không có.
Thế giới màu sắc sẽ không có với người mù. Thế giới âm thanh sẽ
không có với người điếc. và thế giới vô hỉnh cũng không có với
người khiếm đức tin là một giác quan thứ bảy.
Ngày nay, những người trọn đức tin cũng không nhiều. V́ vậy
không khác vào 2500 năm trước các môn đệ của Tam Giáo vẫn c̣n có
kẻ lợi dụng uy quyền của Giáo Chủ để lại làm khí cụ để làm oai
quyền lường gạt hù doạ nhơn sanh. Những người học theo Giáo chủ
mà hành khác đi lời dạy cũng rất nhiều làm sai lệch ư nghĩa ban
đầu của các Đấng đă dạy. Từ chánh tín bước sang mê tín trong
gang tấc.
Cũng bởi cớ cho nên Đạo Cao Đài trong Tam Kỳ Phổ Độ buộc mỗi tín
đồ xin học Đạo phải lập minh thệ rất nặng “Thiên
tru địa lục”
hay “tận
đoạ Tam đồ bất năng thoát tục..” đặng giữ niềm tin. Nặng
nề dường ấy mà họ cũng chẳng ghê sợ, chẳng trọn tin mà vi phạm
v́ mất hoặc hao ṃn đức tin. Đem công thức đánh cược của Pascal
xét thấy họ bị mất tất cả không được hưởng hạnh phúc của Đấng
siêu h́nh dạy bảo. Nếu họ trọn tin th́ họ hưởng được tất cả mà
không tốn một đồng vốn vật chất nào đầu tư vào. Họ mượn lời dạy
của Đức Cao Đài đem Thương Yêu và Công Bằng lo phổ độ cả chúng
sanh biến thành kẻ ban ơn cho nhơn loại để làm theo ư riêng của
ḿnh. Biết không tùng luật Pháp Cao Đài sẽ không được Đức Chí
Tôn công nhận công nghiệp
mà họ vẫn làm!!!
Thượng Đế Cao Đài không hề phạt ai v́ ghét cũng không hề nâng đỡ
ai v́ thương, mà tất cả đều do hành tàng của ḿnh định phận cho
ḿnh. Lên Thiên Đàng hay xuống Đại ngục đều do ḿnh tự chọn và
bước vào. Thiên Đàng là nơi con người không có khổ nên không
chứa kẻ xấu, kẻ ác nên có câu thi:
“Phải giữ chơn linh đặng
tron lành,
Ngọc Hư toàn ngự đấng tịnh anh…”
Đọc qua sự giải thích của vị Giáo chủ của một nền Tân Tôn Giáo
phân tích và hoá giải những vấn nạn có thật (hoặc tự dựng nên)
chúng ta thấy không c̣n
lời nào xác thực và thuyết phục bằng. Phần c̣n lại là sự
tự lựa chọn của các bậc trí giả ấy.
Kết luận:
Chủ đề này là một vấn nạn. Một cuộc thiệt chiến giữa tin và
không tin. Muôn đời khó thể hoá giải dung nạp lẫn nhau. Do đó
với sự hạn hữu cá nhân con người nếu phải lựa chọn th́ phải khôn
ngoan. Đức tin đó giúp cho con người yên tâm và hạnh phúc hy
vọng hay đưa con người vào lo âu đau khổ hay tuyệt vọng.
Tây Ninh, tiết Mạnh Xuân năm Canh Tư.
Phạm Thanh B́nh