Chủ
đề: Bạn đă thực sự hiểu
đạo Cao Đài chưa?
BÀI 4 :
ĐẠO CAO ĐÀI CÓ LẬP QUÂN ĐỘI ĐỂ TU KHÔNG?
Danh từ quân đội Cao Đài đă gây nhiều ngộ nhận với thế hệ sau
này do các tác giả khai thác lệch lạc làm cho tuổi trẻ hiểu
nhầm.
Thật sự Đạo Cao Đài không có quân đội. Nhưng có một quân đội mà
người lính là những công dân Việt Nam có tín ngưỡng Cao Đài là
có thật.
Sau đây là những điều chứng minh:
1-/ Xét về luật pháp của Đại Đạo:
Trong phần hữu h́nh, nền hành chánh đạo của đạo Cao Đài chia làm
cửu viện hành chánh do ba Chánh Phối Sư đảm trách: với tên gọi
như sau:
-./ Hộ Viện, Lương Viện, Công Viện, do Thái Chánh Phối Sư dắt
dẫn.
-./ Học Viện, Y Viện, Nông Viện, do Thượng Chánh Phối Sư dắt dẫn
-./ Ḥa Viện, Lại Viên và Lễ Viện. do Ngọc Chánh Phối Sư dắt dẫn
Với tên gọi của từng viện, không cần giải thích rơ ai cúng hiểu
nhiệm vụ của các viện. Không có viện nào phụ trách quân sự cả.
2-/ Hoàn cảnh đưa đến những công dân Việt Nam có tín ngưỡng Cao
Đài tập trung tự vơ trang:
2.1: PHÁP BẮT ĐỨC HỘ PHÁP & ĐÓNG CỬA T̉A THÁNH
Khi Thế chiến thứ hai (1939-1945) bùng nổ giữa Đồng Minh và Trục
Phát Xít, thừa vận hội mới, các quốc gia nhược tiểu nổi
dậy chống đế quốc. Xứ Việt Nam có các đảng phái nổi lên như: Mặt
trận Việt Minh, Đại Việt, Quốc dân, Duy Tân, Phục Việt, Việt Nam
quốc gia độc lập ….Năm 1940, Nhật tràn vào đại lục Trung Hoa
tiến xuống miền Đông Nam Á Châu. Pháp lo sợ bắt đầu đàn áp các
đảng phái, Cao Đài chịu chung số phận của đất nước. Biểu hiện
chữ Vạn tịnh ( ngược chiều kim đồng hồ) trên nóc các
Thánh Thất tương tự như chữ Vạn động (cùng chiều kim đồng
hồ) của Đức Quốc Xă, bị Pháp hiểu lầm là Cao Đài theo Đức. Đó là
dưới thời Toàn quyền Decoux (1940-1945). Phong trào bài Pháp lan
rộng trên toàn quốc. Các tín đồ cũng là con dân trong nước, nên
nhảy vào ṿng tranh đấu. Hội Thánh không thể ngăn được v́ nước
mất nhà tan, Đạo sự phải suy vi. Nhân cơ hội đó, một ít người vô
lương, quá thiên về bả lợi danh, dựa theo quyền đời, ám hại Đạo.
Họ vu cáo phao truyền Đạo Cao Đài lập một nước nhỏ trong nước
lớn. Họ chú giải lệch lạc các danh từ Pháp Chánh Truyền, Tân
Luật, Đạo Nghị Định, Hội Thánh, Hội Nhơn Sanh, Toà đạo, Cửu
viện… ra là Thượng Nghị Viện, Hạ Nghị Viện, Toà án, Cửu bộ …rồi
cho Đạo Cao Đài có ư chủ trương quân chủ lập hiến.
Ngày 23 tháng 7 năm Canh Th́n (1940):
Pagès
cho lính Mật thám Pháp vào vùng Thánh địa xét giấy tờ và đóng
cửa Báo Ân Từ. Sau đó, họ đem 5 xe hơi vào Toà Thánh bắt các
Chức sắc và Đạo hữu giải ra Tây Ninh.
Ngày 25 tháng 5 năm Tân Tỵ (1941):
Chính phủ Pháp cấm các công quả tạo tác không được xây tiếp Toà
Thánh.
Ngày 4 tháng 6 năm 1941,
Vào 8 giờ sáng, lính mật thám vào bắt Đức Phạm Hộ Pháp.
( Hồi kư của Nguyễn Kỳ Nam ( tập II) trang 104-105).
Ngày 9 tháng 7 năm 1941:
Chủ Quận và lính vào Toà Thánh xét giấy thuế thân và đuổi tất cả
tín hữu về tỉnh, về xứ, không cho ở trong chu vi Thánh địa. Ngày
11-7 lính lại vào bắt ba vị Chức sắc Thiên phong và bắt thêm tại
Cao Miên một vị và Sài g̣n một vị.
Ngày 27 tháng 7 năm 1941:
Pháp đày Đức Phạm Hộ Pháp và 5 vị Chức sắc gồm Phối sư Thái Phấn
Thanh, Phối sư Ngọc Trọng Thanh, Giáo sư Thái Gấm Thanh,
Khai Pháp Trần Duy Nghĩa và Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển sang
Madagascar ( Phi Châu) dưới chiếc tàu Covupiège. Cùng đi đày
trong chuyến đó có các nhà cách mạng như quí ông Nguyễn Thế
Truyền, Nguyễn Thế Song, Ngô Văn Phiến. Thế là, Đức Phạm Hộ Pháp
phải biệt xứ. ( 5 năm, 2 tháng, 3 ngày sau mới được về nước!) (trích
Cao Đài Sinh Lộ cho Nhơn Loại của tác giả Chánh Kiến Cư Sĩ)
Mùa Pháp nạn của Đức Hộ Pháp nằm trong khoảng thời gian thế
chiến thứ hai, giữa Đồng Minh và Trục. Pháp thuộc phe Đồng Minh
c̣n Nhật thuộc phe Trục, Nước Việt Nam cũng như các nước khác,
dù muốn dù không vẫn bị lôi cuốn vào chiến tranh. Nền Đạo Cao
Đài cũng bị ảnh hưởng thời cuộc. Một số người trong chi phái ủng
hộ kháng chiến làm chính quyền Pháp càng thêm nghi kỵ và càng
t́m cách bắt bớ, ngăn chận đạo phát triển. Tôn giáo vốn không
chính trị, nhưng tôn giáo phát sanh để cứu khổ, mà cứu khổ phải
chen vai vào đám nhân dân. Nước mất, nhà tan, cửa chùa bị đóng,
tín đồ bị sát hại: vào thời điểm đó, dù muốn đứng ngoài thế cuộc
cũng không được. Chỉ c̣n giải pháp hợp tác ôn nhu để giữ vững
lái thuyền và bảo vệ tín hữu.
Ngày 26 tháng 9 năm 1941:
Chánh Phủ Pháp ra lịnh phong tỏa trong 24 giờ phải ra khỏi Ṭa
Thánh, đễ cho họ lấy làm trại lính. Tín đồ và chức sắc ra khỏi
Ṭa Thánh mà nước mắt tự tuôn trào rơi lệ. Các chức sắc phải tản
cư ra ngoài hoặc về xứ ẩn thân.Toà Thánh lúc này do Giáo sư
Thượng Tước Thanh và Giáo hữu Thượng Chất Thanh điều hành và sắp
đặt mọi việc để giữ ǵn cơ nghiệp Đạo…Tuy nhiên hai ông hằng
tháng mới đến thăm một lần chớ không dám ở. Trước cảnh Đức
Hộ Pháp Phạm công Tắc bị bắt, chính quyền Pháp phong tỏa Toà
Thánh Tây Ninh và bắt chức sắc, đạo hữu bỏ tù, tử h́nh ..., nên
hai Luật Sự Phan hữu Phước và Vơ văn Nhơn liên hệ với Lễ sanh
Thượng Tư Thanh và Ngọc Hoai Thanh là những vị chức sắc có tinh
thần v́ Đạo t́m kế hoạch để đối phó với chính phủ cường quyền
Pháp: (tác phẩm đă trích)
2.2: HÀNH ĐẠO TẠI THÁNH THẤT KIÊM BIÊN (CAM BỐT )
Ngày 15 đến 20 tháng 8 năm 1942:
Chánh quyền thuộc địa Pháp tại Cao Miên phong tỏa, và chiếm
Thánh Thất Kim Biên, dọn Thiên Bàn và đập phá quả Càn Khôn, buộc
Tín đồ và chức sắc phải ra khỏi Thánh Thất trong 24 giờ.
2.3: HIỆP TÁC VỚI NHẬT
Do số tín hữu về Sài G̣n ngày càng đông, để t́m sinh kế. Giáo sư
Thượng Vinh Thanh (một chức sắc tiểu cấp Cửu Trùng Đài) kư hợp
đồng với quân đội Nhật làm công các trại cưa, nhứt là đóng tàu
gần cầu chữ Y. Lúc này chính phủ Pháp thấy đạo Cao Đài hợp tác
với Nhật nên họ khủng bố Đạo khắp nơi, gây phong trào lập châu
vi đạo và di cư đến hăng tàu NITINAN ngày thêm đông. Số nhân
công lên trên 3.000 người Sau đó, được lịnh Đức Cường Để lập Nội
ứng nghĩa binh do Giáo sư Thượng Tước Thanh Tổng chỉ huy và Cận
vệ quân do Giáo hữu Thượng Tuy Thanh chỉ huy, c̣n Giáo Hữu Thái
Đến Thanh làm Giám đốc việc đóng tàu. Nội ứng nghĩa binh tuyển
chọn tráng đinh từ 18 đến 40 tuổi chia thành đội ngũ nên chẳng
bao lâu hăng tàu trở thành đạo binh.
Ngày mồng 1 tết năm Ất Dậu ( 17.1.1945)
Làm lễ duyệt binh tại Sàig̣n, có Tư lịnh quân đội Nhật dự khán.
Giáo Sư Thượng Vinh Thanh ( Trần quang Vinh ) chủ tọa buổi lễ.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945:
V́ muốn lật đổ chế độ đô hộ của chính phủ Pháp nên
quân đội Cao Đài đă thỏa thuận giúp quân đội Nhật trong ngày đảo
chánh. Vào 21 giờ, các cơ quan quân sự và chánh trị Pháp
đều bị bao vây. Thủy sư đô đốc Decoux bị bắt. Sáng hôm sau các
công sở Pháp ở Sài G̣n đều có quân đội Cao Đài trấn giữ. Quân
đội Nhật đă làm chủ t́nh h́nh toàn cơi Việt Nam, xóa bỏ quyền
lực hành chính và quân sự của Pháp. Người Nhật giao độc lập cho
nước Việt nam quân chủ của Bảo Đại và sau đó nội các Trần
Trọng Kim ra lănh đạo quốc gia. (sách
đă trích)
2.4: HỢP TÁC VỚI VIỆT MINH
Nhà cầm quyền Nhật cho quân đội Cao Đài đặt bộ Tham mưu tại
thành quan sáu (số 6 Boulevard Norodom). Vào tháng 8.1945,
chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc.
Từ 13 đến 15.8.1945 Hội nghị ṭan quốc của Đảng Cộng sản Đông
Dương họp tại Tân Trào, Tuyên Quang nhận định cơ hội tổng khởi
nghĩa dành chánh quyền đă tới. Đến 16.8.1945 đại hội bầu ra Ủy
ban dân tộc giải phóng trung ương tức chính phủ lâm thời do ông
Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Từ 17 đến 20. 8.1945 Sàig̣n chứng kiến 2 sự kiện lớn là lễ tuyên
thệ của Thanh niên Tiền phong do ông Phạm Ngọc Thạch làm thủ
lĩnh, kế đến là Việt Minh ra mặt công khai. Đến 18-8-1945
Nhật đầu hàng, Nam phần được Nhật giao lại cho chính phủ
Việt Nam do ông Nguyễn Văn Sâm làm Khâm sai., c̣n Bắc Việt th́
Chính phủ lâm thời giành lấy chánh quyền sau đó ( 19.8.1945).
23.8.1945, tại Huế, vua Bảo Đại thoái vị, nội các
Trần Trọng Kim đổ.
24.8. 1945, được lời hứa của Terauchi, Thống chế Nhật bản, là
không can thiệp vào cách mạng Việt Nam, nên Việt minh phát
lệnh tổng khởi nghĩa chiếm các công sở và lập Ủy ban hành chính
lâm thời cho Nam bộ. Sàig̣n đổi chủ trong ṿng mấy giờ mà không
có tiếng súng nổ…
( theo Những ngày tháng 8. 1945 - Trần Văn Giàu).
Trước t́nh h́nh đó, quân đội Cao Đài luôn giữ thái độ b́nh tỉnh
tránh các vụ xung đột. Giáo sư Thượng Vinh Thanh họp Bộ Tham mưu
định kế hoạch, vài hôm sau th́ từ chức đại biểu trở về hành
Đạo, giao ông Đặng Trung Chữ thay thế trong Mặt trận Việt
Minh. Thời thế đă giúp Mặt trận Việt Minh lên nắm chính quyền
thành lập Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hoà. Quân đội Cao Đài cũng
như các chính đảng khác đồng thanh ủng hộ và gia nhập vào Mặt
trận để tiếp tục chống thực dân Pháp. Uỷ ban hành chánh
triệu tập các chính đảng để thành lập bốn sư đoàn quân dân cách
mạng của Nam Bộ dưới sự Tổng chỉ huy của Uỷ trưởng quân sự Trần
Văn Giàu. Quân đội Cao Đài vào đệ tam sư đoàn v́ đặt quyền
lợi tổ quốc lên trên hết. Sau đó, quân đội Đồng minh vào Đông
Dương giải giáp quân đội Nhật và ra lịnh Nhật giải tán các dân
quân cách mạng. Trần Văn Giàu ra lịnh các sư đoàn lập tức rút ra
khỏi châu thành Sài g̣n. Cơ sở Cao Đài tham mưu sự vụ cũng lo
chuyên chở đồ đạc đi nơi khác hoặc về Toà Thánh. (sách đă
trích)
THỎA ƯỚC 9-6-1946 & ĐỨC HỘ PHÁP TRỞ VỀ
Ngày 8-4-Bính Tuất (8-5-1946) các cơ sở Đạo Sàig̣n bị chánh phủ
Pháp phong toả và bắt giam các người lănh đạo. Họ đánh khảo và
sau cùng yêu cầu hợp tác. Giáo sư Thượng Vinh Thanh đưa ra bốn
nguyện vọng.
·Xin
cho Đức Phạm Hộ Pháp và chư vị Thiên phong bị đày ở đảo
Madagascar được trở về Việt Nam.
·Trả
lại tự do tín ngưỡng cho toàn Đạo. Toà Thánh và các Thánh Thất
được mở cửa.
·Nh́n
nhận tư cách pháp nhân của Đạo Cao Đài
·Ngưng
khủng bố và bắt bớ các chức sắc và đạo hữu
Đổi lại, Quân đội Cao Đài phải ngưng chiến chống lại quân đội
Pháp. Nhờ đó mà tất cả tín hữu được tha sau 22 ngày bị bắt, bị
đánh đập. Bản thoả ước ngày 9-6-1946 ra đời, đại để :
- Đối với Pháp : quân
đội Cao Đài ngưng chiến và giải tán tất cả các bộ đội lưu động
kháng chiến.
- Đối với Đạo : quân
Pháp ngưng các cuộc khủng bố không bắt giam tín hữu, đảm bảo
quyền tự do hành giáo và truyền giáo. Mở cửa Toà Thánh và các
Thánh Thất được tự do tế tự trong phạm vi tôn giáo. Trao trả Đức
Phạm Hộ Pháp và chư vị Thiên phong về cố quốc, phục hồi các
quyền công dân.
Toà Thánh vẫn thành lập một đạo binh Tự Vệ để pḥng thủ do Đại
tá Nguyễn Thành Phương tổng chỉ huy. Từ đây, Toà Thánh dưới sự
điều khiển của Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đăi tổ chức lại Toà Nội
Chánh Cửu Viện, sửa soạn các dinh thự. Tín hữu mọi nơi lần lượt
trở về tụ tập quanh Tổ Đ́nh.
Chiều ngày 21-8-1946, tàu lle de France cập bến Vũng Tàu
đưa Đức Hộ Pháp và chư vị Thiên phong trở về cố quốc sau hơn
5 năm Pháp nạn ( 27.7.1941 _ 21.8.1946). Ngày 30-8-1946 toàn
Đạo và chính phủ Pháp làm lễ rước Đức Phạm Hộ Pháp về Toà Thánh. (sách
đă trích)
TIẾT 6: LỄ XUẤT QUÂN QUÂN ĐỘI CAO ĐÀI
Quân đội Cao Đài với danh hiệu Nội Ứng Nghĩa Binh gồm những tín
đồ hưởng ứng lời kêu gọi đă đi làm công nhân cho hăng tàu
Nitinan; được huấn luyện trong thời gian này để tham gia cuộc
đảo chánh Pháp ngày 9-3-1945. Nhưng măi đến 8-1-Đinh Hợi (29.1.1947) mới
chính thức làm lễ xuất quân và có quân kỳ 3 màu vàng, xanh, đỏ,
trên góc có h́nh bánh xe tiến hoá.
Việc thành lập quân đội có nhiều người công kích nhưng nếu nh́n
lại lịch sử vào thời điểm đó sẽ cảm nhận được nỗi thống khổ của
người tín đồ Cao Đài khi phải ở giữa hai làn đạn của quân đội
Pháp và Việt Minh. Thêm vào đó là nỗi thương đau, uất ức
khi Ṭa Thánh bị quân đội Pháp lấy làm garage và vị lănh
đạo kính yêu là Đức Hộ Pháp bị bắt lưu đày ở Madagasca, Phi Châu
không có ngày về! Chính Đức Lư Giáo Tông và Đức Quyền Giáo
Tông đă quyết định thành lập quân đội tạm thời để bảo vệ cơ
nghiệp Đạo cũng như cho tín đồ. Trong một đàn cơ do Đức Hộ
Pháp và Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa cầu đêm mùng 1 tháng 3 năm
Mậu Tư (1948), Đức Lư Giáo Tông giáng dạy như sau :
“Hiền hữu khuynh tâm v́ Lăo và Thượng Trung Nhựt lập quân đội
khi hiền hữu vắng mặt có phải ? T́nh cảnh đôi ta phản trắc. Lăo
là thiên điều mà cầm quyền trị thế, c̣n hiền hữu tại thế mà nắm
thiên điều. Lăo xin nhắc lại, khi hiền hữu tịnh pháp tại Thủ Đức
(1929) Lăo đă nói: cơ chuyển thế, Trời người hiệp nhứt, hiền hữu
có nhớ? (sách đă trích)
Đến ngày 20-3-Bính Thân (30-4-1956), Đức Hộ Pháp xác nhận rơ
việc lập Quân đội Cao Đài như sau:
“Sau 5 năm 2 tháng bị đồ lưu nơi hải ngoại, Bần Đạo đă để hết
sức lực và tâm năo đặng nghiên cứu và thi hành các phương pháp
bảo vệ phong trào cách mạng, gở ách lệ thuộc của Tổ quốc
và giống ṇi. Lại t́m phương hay bảo thủ tinh thần dân tộc hầu
đủ phương thống nhứt hoàng đồ, tránh nạn Nam Bắc phân tranh, nồi
da xáo thịt. Rủi thay! Khi trở về nước Bần Đạo đă bị trong cảnh
ngộ khó khăn là sự chia rẻ của hai miền: Nam th́ Quốc gia, Bắc
th́ Cộng sản. Trong cuộc tranh đấu họ đă gây thù kết oán với
nhau rất nhiều và khối quân lực của Cao Đài là tay mở màn cách
mạng đă đảo chánh quyền Pháp quốc. Bần đạo trong khi ấy không có
ư định ǵn giữ tồn tại quân lực Cao Đài. Nhưng v́ trường hợp
tranh đấu ấy đă gây hấn quá kịch liệt giữa khối Quốc gia và Cộng
sản, nên cả tín đồ Cao Đài bị khủng bố tàn sát quá thê
thảm, và bị quá nhiều lằn tên mũi đạn của Pháp, nên buộc ḷng
Bần đạo phải chấp nhận vào hàng ngũ của khối quốc gia và trong
phận sự thiêng liêng tranh đấu đặng thực hiện độc lập. Khi Đức
Bảo Đại về nước, chính ḿnh Bần đạo giao trọn quyền sử dụng quân
đội Cao Đài cho Đức Ngài điều khiển trong hàng ngũ Quân Lực Quốc
Gia. Kịp khi Đức Ngài đi Pháp mới tạm giao quân lực ấy lại cho
Bần đạo. Trong lúc vắng mặt, Đức Ngài đă ra lịnh cho hai Chánh
phủ của Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm và Bửu Lộc thi hành quốc gia
hóa quân đội Cao Đài. Nhưng sự thi hành ấy vẫn kéo dài cho tới
ngày Chánh phủ Ngô Đ́nh Diệm thọ phong toàn quyền cũng chưa
quyết định. Bần Đạo phải nhắc nhở và yêu cầu cho Chánh phủ Ngô
Đ́nh Diệm quốc gia hoá quân đội Cao Đài một cách hợp pháp.
“ Bần Đạo không buổi nào muốn giải quyết vận mạng nước nhà với
quân lực, mà chỉ dùng phương pháp đạo đức đặng đem hoà b́nh hành
phúc lại cho giống ṇi”.
GIẢI TÁN & QUỐC GIA HÓA
QUÂN ĐỘI CAO ĐÀI
Sau khi hồi loan (10-1946), trước sự thể đă rồi, Đức Hộ Pháp
nhận làm Thượng Tôn Quản Thế, một chức vụ có ư nghĩa về tinh
thần. Đức Ngài ban cho quân đội Cao Đài lá cờ Bảo Sanh, Nhơn
Nghĩa và mệnh danh là Đạo binh Nhơn Nghĩa, có. quân số hơn mười
lăm ngàn người (đông nhất trong các quân đội giáo phái ở miền
Nam thời bấy giờ).
Hiệp ước ( 8.1.1947) kư giữa Ngài Phạm Công Tắc và tướng Fray
ghi rơ: hai bên cộng tác để khôi phục lại trật tự và ḥa b́nh
cho xứ sở, cho phép người dân có đời sống b́nh thường, tự do dân
chủ trong “ Autonomous Republic of Cochinchina”. Khi đạt
được mục tiêu tốt đẹp này, quân đội Cao Đài sẽ được giải tán v́
sự hiện diện không c̣n cần thiết nữa. Nhưng sau khi
thấy rơ nhà cầm quyền Pháp không thi hành đúng theo hiệp ước,
Ngài ban Thánh Lịnh số 149 ngày 21-1-Kỷ Sửu (21-2-1949):
" Nghĩ v́ Quân Đội Cao Đài chẳng có lẽ ǵ, bởi giúp
quân đội Pháp thi hành hiệp ước mà bỏ qua cho được cái sứ mạng
thiêng liêng tái phục hoàng đồ phụng sự tổ quốc. Nghĩ v́, nhà
cầm quyền Pháp không thực hành đúng theo hiệp ước ngày 8-1-1947,
nên Hội Thánh nhứt định cho toàn đạo hữu Cao Đài giáo sẽ
đứng trung lập mà thôi”.
Đến ngày 11-3-Ất Mùi (2-5 -1955), quân đội Cao Đài đă được
quốc gia hóa. Đức Phạm Hộ Pháp không c̣n làm Thượng Tôn Quản Thế
nữa. Trong thời gian làm Thượng Tôn Quản Thế, Đức Ngài đă:
- Tạo thanh b́nh cho vùng Thánh địa từ năm 1947-1955.
Đưa quân đội ra ngoài phạm vi Thánh địa để việc hành Đạo được
trang nghiêm. Đức Ngài đă từng khuyến cáo cấp chỉ huy quân đội
Cao Đài:" Các con là lửa Tam muội. Lửa dữ trừ được ma vương
mà cũng có thể đốt thiêu luôn Toà Thánh, nên Thầy không cho các
con ở Thánh địa, hăy ra ngoại vi đồn trú”.
- Tuyên dương tận trung báo quốc: Theo Thánh lịnh số 34/VPHP
ngày 9-1-Quư Tỵ (22-2-1953 ) Đức Ngài cho tuyên dương Quân đội
Cao Đài v́ :
· Đối
với Đạo, quân đội Cao Đài là một tiêu biểu cho sự công
b́nh và nhân đạo, đă nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa và thi hành đúng
với sứ mạng thiêng liêng.
· Đối
với Quốc gia : Quân đội Cao Đài đă tiền phong ủng hộ
giải pháp quốc gia, biết noi gương các bậc tiền nhân liệt sĩ để
làm vinh diệu cho tinh thần thượng vơ của dân tộc Việt Nam.
· Đối
với quốc dân , quân đội Cao Đài đă lập trật tự an ninh
cho dân chúng trong thời loạn.
Quân đội Cao Đài thành lập 1945 và giải tán toàn bộ vào 1954.
KẾT LUẬN VỀ PHONG TRÀO VŨ TRANG CAO ĐÀI
1-/ Đạo Cao Đài không lập quân
đội để tu hành. Quân đội Cao Đài có hiện hữu do các công dân
Việt nam có tín ngưỡng Cao Đài tự vơ trang để tự bảo vệ tánh
mạng và tài sản của chính ḿnh trước trước sự bức hại của nhà
cầm quyền Pháp trong lúc vị giáo chủ hữu h́nh bị bắt đày đi
Madagasca châu phi không có ngày về. Sự có mặt của quân đội do
tự phát của ngừơi công dân các tôn giáo đều có, không phải riêng
Cao Đài. Không phải do lệnh của v́ giáo chủ cho nên nói rằng Cao
Đài lập quân đội là một sự nhầm lẫn to lớn. Khi được trả tự do
về, vị giáo chủ này đă sắp xếp mọi việc ổn thỏa sau đó giải tán
quân đội.
2-/ Cũng nhờ sự có mặt của quân đội Cao Đài mà quân Pháp phải
chịu thỏa thuận trả tự do cho vị giáo chủ và Đạo được công nhận
sự b́nh yên tu hành tiếp tục.
3-/ Tại sao các lănh tụ người Cao Đài không lợi dụng ảnh hưởng
của họ để giành chính quyền? Lư do chính yếu là v́ những
người Cao Đài không có tham vọng nắm quyền lực. Họ hi sinh xương
máu với ước mong nước nhà được độc lập, người dân được sống an
b́nh và tự do hành Đạo.
Trên đây là sự thực về cái gọi là quân đội Cao Đài. Nếu nói
không đầy đủ sẽ làm thay đổi bản chất của sự việc. Mong quư bằng
hữu đồng đạo có ư kiến về sự việc này. Xin đa tạ.
Nguyễn Tâm