Đảng
viên lão thành kêu gọi thoát Trung
Cựu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đứng đầu nhóm các Đảng
viên lão thành
Hơn 60 Đảng viên Cộng sản lão thành vừa gửi thư ngỏ lên
Ban Chấp hành Trung ương kêu gọi từ bỏ con đường xây dựng
XHCN và thoát khỏi lệ thuộc vào Trung Quốc.
Bức thư mà BBC có trong tay đề ngày 28/7/2014 với 61 chữ
ký của nhiều nhân vật hoạt động lâu năm và có tiếng ở
Việt Nam như Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Thứ
trưởng Chu Hảo, các kinh tế gia Lê Đăng Doanh và Phạm Chi
Lan... được gửi tới Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nội dung thư bắt đầu bằng nhận định rằng từ nhiều năm
nay, Đảng CSVN đã "dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm
về xây dựng chủ nghĩa xă hội theo mô h́nh xô-viết, được coi là
dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin".
"Công cuộc đổi mới gần ba mươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về
đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên
thể chế độc đảng toàn trị ḱm hăm tự do, dân chủ và chia rẽ dân
tộc."
Đường lối chính sách của Đảng và nạn tham nhũng, theo các
tác giả bức thư, đã "đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn
diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh".
Thư nhắc tới Hội nghị Thành Đô năm 1990, mà nhiều người
cho là mốc dấu cho một giai đoạn Việt Nam bị lệ thuộc
về chính trị-kinh tế vào Trung Quốc.
Từ đó tới nay, "Việt Nam đă có nhiều nhân nhượng trong quan
hệ với Trung Quốc, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, Trung
Quốc càng lấn tới".
Theo các Đảng viên chấp bút thư, thực trạng yếu kém của
Việt Nam phơi bày sự bất cập "cả về trách nhiệm và năng lực
của lănh đạo Đảng và nhà nước trong thời gian qua".
Khuyến cáo
Những người này cũng thừa nhận rằng toàn thể Đảng
CSVN, trong đó có bản thân họ, phải chịu trách nhiệm trước
dân tộc về t́nh h́nh nói trên nhưng phần trách nhiệm chủ yếu và
trước hết thuộc về Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị.
Bức thư nêu ra một số yêu cầu chính, mà trước tiên là
Đảng CSVN cần thay đổi Cương lĩnh và "từ bỏ đường lối sai lầm
về xây dựng chủ nghĩa xă hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc
và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn
trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn ḥa".
Chỉ có hệ thống nhà nước pháp quyền thật sự dân chủ
mới có thể mở ra thời kỳ mới phát triển cho Việt Nam,
theo nhận định trong thư.
Họ cũng kêu gọi quyết tâm thoát khỏi tình trạng lệ thuộc
nghiêm trọng vào Trung Quốc.
"Đảng CSVN cần thay đổi Cương lĩnh và từ bỏ đường lối sai lầm
về xây dựng chủ nghĩa xă hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc
và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn
trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn ḥa."
Giai đoạn này, Đảng CSVN đang chuẩn bị tiến tới đại hội
Đảng các cấp trước khi tổ chức Đại hội Đảng lần thứ XII vào
năm 2016. Các tác giả bức thư cho rằng đây là thời điểm
thuận lợi để tiến hành thay đổi thể chế chính trị một
cách thực sự.
Đặc biệt, lá thư đề cập tới quan hệ đối ngoại, mà
trước hết là với Trung Quốc.
Các tác giả kêu gọi lãnh đạo Đảng CSVN và nhà nước
"thống nhất nhận định về mưu đồ và hành động của thế lực bành
trướng Trung Quốc đối với nước ta, từ bỏ những nhận thức mơ hồ,
ảo tưởng; và có đối sách trước mắt và lâu dài bảo vệ độc lập,
chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lănh thổ trong mọi t́nh huống,
thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc".
Họ yêu cầu minh bạch hóa sự thật về quan hệ Việt – Trung và
những điều quan trọng đă kư kết với Trung Quốc như thỏa thuận
Thành Đô năm 1990, thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất
liền và vịnh Bắc Bộ, những thỏa thuận về kinh tế …
Lá thư cũng khuyến cáo nhanh chóng kiện Trung Quốc ra ṭa án
quốc tế về tình hình tranh chấp căng thẳng trên Biển Đông.
"Quan điểm 'không liên minh với nước nào nhằm chống nước thứ ba'
là tự trói buộc ḿnh, không phù hợp với thực tế, cần phải thay
đổi."
Trước đây đã một vài lần các thư ngỏ với nội dung kêu
gọi thay đổi đã được gửi tới lãnh đạo Đảng và nhà
nước Việt Nam nhưng không thấy có phản hồi công khai từ
người nhận.
Nguồn BBC Tiếng Việt
Dưới đây là nguyên văn bức
THƯ NGỎ: (
Nguồn boxitvn.net
)
THƯ NGỎ
Ngày 28 tháng 07 năm 2014
Kính
gửi: Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam
Từ nhiều năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam
(ĐCSVN) dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng
chủ nghĩa xă hội theo mô h́nh xô-viết, được coi là dựa trên chủ
nghĩa Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần ba mươi năm qua nhằm sửa
chữa sai lầm về đường lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi
vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn trị ḱm hăm tự do, dân chủ
và chia rẽ dân tộc. Đường lối sai cùng với bộ máy cầm quyền quan
liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi
ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng
hoảng toàn diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh.
Trong
khi đó, giới lănh đạo Trung Quốc từ lâu đă theo đuổi mưu đồ đặt
nước ta vào vị thế lệ thuộc, phục vụ lợi ích của Trung Quốc. Sau
Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay,Việt Nam đă có nhiều nhân
nhượng trong quan hệ với Trung Quốc, phải trả giá đắt và càng
nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới. Gần đây, trong bối cảnh
quốc tế phức tạp, Trung Quốc có nhiều hành vi leo thang mới
trong mưu đồ xâm lược và bá chiếm Biển Đông, coi Việt Nam là mắt
xích yếu nhất cần khuất phục trước tiên. Thực tế bóc trần cái
gọi là “cùng chung ư thức hệ xă
hội chủ nghĩa” chỉ là sự ngộ
nhận và “4 tốt, 16 chữ”
chỉ là để che đậy dă tâm bành trướng. Cho đến nay, thế lực bành
trướng Trung Quốc đă đi được những bước quan trọng trong mưu đồ
biến Việt Nam thành “chư hầu kiểu mới” của họ.
Thực trạng đau ḷng này phơi bày sự yếu
kém cả về trách nhiệm và năng lực của lănh đạo đảng và nhà nước
trong thời gian qua.
Toàn thể ĐCSVN, trong đó có chúng tôi,
phải chịu trách nhiệm trước dân tộc về t́nh h́nh nói trên và
phải góp phần tích cực khắc phục những sai lầm đă gây ra; trong
đó phần trách nhiệm chủ yếu và trước hết thuộc về Ban Chấp hành
Trung ương và Bộ chính trị.
V́ vậy chúng tôi, những người kư tên dưới
đây, thấy cần bày tỏ suy nghĩ của những đảng viên ĐCSVN trung
thành với tâm nguyện v́ nước v́ dân khi vào Đảng với mấy yêu cầu
chính dưới đây:
1. Trước t́nh thế hiểm nghèo của đất
nước, với trách nhiệm và vị thế của ḿnh, ĐCSVN tự giác và chủ
động thay đổi Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng
chủ nghĩa xă hội, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ,
trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân
chủ một cách kiên quyết nhưng ôn ḥa. Ngay từ bây giờ, cần thảo
luận thẳng thắn và dân chủ trong toàn Đảng và trong cả nước về
t́nh h́nh mọi mặt của đất nước và những thách thức trước bước đi
mới rất trắng trợn của Trung Quốc bá chiếm Biển Đông, vạch ra
con đường chuyển đổi cơ cấu kinh tế lạc hậu và lệ thuộc nghiêm
trọng vào Trung Quốc hiện nay, xây dựng hệ thống nhà nước pháp
quyền thật sự dân chủ. Chỉ có như vậy mới phát huy được sức mạnh
trí tuệ, tinh thần và vật chất của dân tộc Việt Nam, tăng cường
được đoàn kết, ḥa hợp dân tộc và tranh thủ được sự ủng hộ mạnh
mẽ của nhân loại tiến bộ, mở ra một thời kỳ mới cho sự phát
triển và bảo vệ đất nước.
Quan điểm nêu trên cần được thấu suốt và
thực hiện ngay trong việc chuẩn bị và tiến hành đại hội Đảng các
cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XII với các đại biểu được
bầu chọn thật sự dân chủ, đáp ứng được yêu cầu chính trị của đại
hội. Đó là trách nhiệm của các tổ chức đảng các cấp và của từng
đảng viên có tinh thần yêu nước. Đồng thời, kỳ bầu cử Quốc hội
sắp tới phải thật sự dân chủ, tạo lập một Quốc hội chuyên
nghiệp, xứng đáng đại diện cho dân, đáp ứng yêu cầu lập pháp
chuyển đổi thể chế chính trị.
Việc cần làm ngay để thể hiện sự thực tâm
chuyển đổi thể chế chính trị, tạo niềm tin trong dân là các cơ
quan công quyền chấm dứt các hành động sách nhiễu, trấn áp, quy
kết tùy tiện đối với người dân biểu t́nh yêu nước, đối với các
tổ chức xă hội dân sự mới thành lập, trả tự do cho những người
đă và đang bị kết án h́nh sự chỉ v́ công khai bày tỏ quan điểm
chính trị của ḿnh.
2. Lănh đạo đảng và nhà nước thống nhất
nhận định về mưu đồ và hành động của thế lực bành trướng Trung
Quốc đối với nước ta, từ bỏ những nhận thức mơ hồ, ảo tưởng; và
có đối sách trước mắt và lâu dài bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc
gia, toàn vẹn lănh thổ trong mọi t́nh huống, thoát khỏi sự lệ
thuộc vào Trung Quốc, xây dựng quan hệ láng giềng ḥa thuận, hợp
tác b́nh đẳng, vun đắp t́nh hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
Là người chủ đất nước, nhân dân có quyền
được biết và phải được biết sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung
Quốc và những điều quan trọng đă kư kết với Trung Quốc như thỏa
thuận Thành Đô năm 1990, thỏa thuận về hoạch định biên giới trên
đất liền và vịnh Bắc Bộ, những thỏa thuận về kinh tế v.v…
Việc cần thiết và cấp bách hiện nay là
phải nhanh chóng kiện Trung Quốc ra ṭa án quốc tế nhằm phát huy
thế mạnh chính nghĩa của nước ta. Đồng thời, Việt Nam cần chủ
động cùng với các nước ven Biển Đông thỏa thuận giải quyết những
vướng mắc về chủ quyền trên biển với các đảo, băi đá; củng cố sự
đoàn kết, thống nhất của các nước ASEAN, trước hết là giữa các
quốc gia ven biển, trong cuộc đấu tranh chống mọi hành động bành
trướng của Trung Quốc muốn độc chiếm vùng biển này thành ao nhà
của ḿnh.
Quan điểm “không liên minh với nước nào
nhằm chống nước thứ ba” là tự trói buộc ḿnh, không phù hợp với
thực tế, cần phải thay đổi.
Tổ quốc đang
lâm nguy đồng thời đứng trước cơ hội lớn để thay đổi! Trách
nhiệm của các đảng viên yêu nước là phải cùng toàn dân nắm lấy
thời cơ này, vượt qua thách thức, mở ra một thời kỳ mới cho sự
phát triển và bảo vệ đất nước.
Bỏ lỡ cơ hội
này là có tội với dân tộc!
DANH SÁCH CÁC ĐẢNG VIÊN KƯ THƯ NGỎ GỬI
BCH TW
VÀ TOÀN THỂ
ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
______________________
1. Nguyễn
Trọng Vĩnh, vào Đảng năm 1939,
Thiếu tướng, nguyên Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương
Đảng khóa III, nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại
Trung Quốc, Hà Nội.
2. Đào
Xuân Sâm, vào Đảng năm 1946,
nguyên Trưởng khoa Quản lư kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng
Chính phủ, Hà Nội.
3. Trần
Đức Nguyên, vào Đảng năm 1946,
nguyên Trưởng ban Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà
Nội.
4. Nguyễn
Văn Tuyến, vào Đảng năm 1946,
Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
5. Lê
Duy Mật, vào Đảng năm 1947,
Thiếu tướng, nguyên Tư lệnh phó, kiêm Tham mưu trưởng Quân khu
II, Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang 1979 – 1988, Hà
Nội.
6. Tạ
Đ́nh Du (Cao Sơn), vào Đảng năm
1948, Đại tá, Cựu chiến binh, Hà Nội.
7. Vũ
Quốc Tuấn, vào Đảng năm 1948,
nguyên Trợ lư Thủ tướng Vơ Văn Kiệt, Hà Nội.
8. Nguyễn
Hữu Côn, vào Đảng năm 1949, Đại
tá, Cựu chiến binh, nguyên Tham mưu trưởng Hậu cần Quân đoàn 2,
Hà Nội.
9. Hoàng
Hiển, vào Đảng năm 1949, nguyên
Trung tá Hải quân, Hà Nội.
10. Đỗ
Gia Khoa, vào Đảng năm 1949,
nguyên cán bộ cơ quan Bộ Công an và Tổng cục Hải Quan, Hà Nội.
11. Hà
Tuân Trung, vào Đảng năm 1949,
nguyên Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nguyên Tổng biên tập
tạp chí Kiểm tra,
Hà Nội.
12. Nguyễn
Thị Ngọc Toản, vào Đảng năm
1949, Đại tá, Giáo sư, Cựu Chiến binh, nguyên Chủ nhiệm khoa,
Quân Y viện 108, Hà Nội.
13. Phạm
Xuân Phương, vào Đảng năm 1949,
Đại tá, Cựu chiến binh, nguyên chuyên viên Tổng cục Chính trị
Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội.
14. Tô
Ḥa,
vào Đảng năm 1950, nguyên Tổng Biên tập báo Sài
G̣n Giải phóng.
15. Vơ
Văn Hiếu, vào Đảng năm 1950,
nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam.
16. Hoàng
Tụy, vào Đảng năm 1950, Giáo sư
Toán học, Hà Nội.
17. Huỳnh
Thúc Tấn, vào Đảng năm 1951,
nguyên Phó Chủ nhiệm Văn pḥng Chính phủ, Hà Nội.
18. Tạ
Đ́nh Thính, vào Đảng năm 1951,
nguyên Vụ trưởng Văn pḥng Trung ương Đảng, Hà Nội.
19. Nguyên
Ngọc, vào Đảng năm 1956, Nhà
văn, nguyên Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, Hội An.
20. Tương
Lai, vào Đảng năm 1959, nguyên
Viện trưởng Viện Xă hội học, nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ
tướng Vơ Văn Kiệt, TP. Hồ Chí Minh.
21. Nguyễn
Khắc Mai, vào Đảng năm 1959,
Giám đốc Trung tâm Minh Triết, Hà Nội.
22. Đào
Công Tiến, vào Đảng năm 1960,
nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Phó
Chủ tịch Hội Kinh tế Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.
23. Vũ
Linh, vào Đảng năm 1962, nguyên
Chủ nhiệm chương tŕnh PIN mặt trời, Đại học Bách Khoa Hà Nội,
Hà Nội.
24. Nguyễn
Kiến Phước, vào Đảng năm 1962,
nguyên Ủy viên Ban Biên tập báo Nhân
Dân, TP. Hồ Chí Minh.
25. Nguyễn
Thị Ngọc Trai, vào Đảng năm
1963, nhà báo, nhà văn, nguyên Phó Tổng biên tập báo Văn
Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam,
Hà Nội
26. Vơ
Văn Thôn, vào Đảng năm 1965,
nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
27. Nguyễn
Trung, vào Đảng năm 1965,
nguyên Đại sứ Việt Nam tại Thái Lan, Hà Nội.
28. Huỳnh
Kim Báu, vào Đảng năm 1965,
nguyên Tổng thư kư Hội Trí thức yêu nước TP. Hồ Chí Minh, TP.
Hồ Chí Minh.
29. Hạ
Đ́nh Nguyên, vào Đảng năm 1965,
nguyên Chủ tịch Ủy ban phối hợp hành động Tổng hội Sinh viên Sài
G̣n, TP. Hồ Chí Minh.
30. Nguyễn
Văn Ly (Tư Kết), vào Đảng năm
1966, nguyên thư kư của Bí thư Thành ủy Mai Chí Thọ, nguyên Phó
bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí
Minh
31. Lê
Công Giàu, vào Đảng năm 1966,
nguyên Phó bí thư Thường trực Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, nguyên Giám đốc Trung tâm Xúc tiến
thương mại, đầu tư TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
32. Kha
Lương Ngăi, vào Đảng năm 1966,
nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài
G̣n Giải phóng, TP. Hồ Chí
Minh.
33. Tô
Nhuận Vỹ, vào Đảng năm 1967,
nhà văn, nguyên Bí thư Đảng Đoàn kiêm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ
thuật tỉnh Thừa Thiên – Huế, Tổng biên tập tạp chí Sông
Hương, nguyên Giám đốc Sở Ngoại
vụ tỉnh Thừa Thiên – Huế, TP. Huế.
34. Phạm
Đức Nguyên, vào Đảng năm 1968,
Phó Giáo sư Tiến sĩ ngành Xây dựng, 46 tuổi đảng, Hà Nội.
35. Bùi
Đức Lại, vào Đảng năm 1968,
nguyên Vụ trưởng, chuyên gia cao cấp bậc II, Ban Tổ chức trung
ương Đảng, Hà Nội.
36. Lữ
Phương, vào Đảng năm 1968,
nguyên Thứ trưởng Bộ Văn Hóa Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền
Nam, TP. Hồ Chí Minh.
37. Nguyễn
Lê Thu An, vào Đảng năm 1969,
cựu tù chính trị Côn Đảo, TP. Hồ Chí Minh.
38. Nguyễn
Đăng Quang, vào Đảng năm 1969,
Đại tá công an, đă nghỉ hưu, Hà Nội.
39. Trần
Văn Long, vào Đảng năm 1970,
nguyên Phó Bí thư Thành đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
TP. Hồ Chí Minh.
40. Nguyễn
Thị Kim Chi, vào Đảng năm 1971,
Nghệ sĩ ưu tú, Đạo diễn điện ảnh, Hà Nội.
41. Huỳnh
Tấn Mẫm, vào Đảng năm 1971,
nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài G̣n trước 1975, nguyên
đại biểu Quốc hội khóa 6, nguyên Tổng biên tập báo Thanh
Niên, TP. Hồ Chí Minh.
42. Vơ
Thị Ngọc Lan, vào Đảng năm
1972, nguyên cán bộ công an TP. Hồ Chí Minh.
43. Hà
Quang Vinh, vào Đảng năm 1972,
cán bộ hưu trí, TP. Hồ Chí Minh.
44. Nguyễn
Đắc Xuân, vào Đảng năm 1973,
nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa, nguyên Trưởng Đại diện báo Lao
Động tại khu vực Miền Trung –
Tây Nguyên, TP. Huế.
45. Lê
Đăng Doanh, vào Đảng năm 1974,
Tiến sĩ Kinh tế học, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ
tướng Chính phủ, Hà Nội.
46. Chu
Hảo, vào Đảng năm 1974, nguyên
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội.
47. Nguyễn
Xuân Hoa, vào Đảng năm 1974,
nguyên Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Thừa Thiên – Huế,
TP. Huế.
48. Nguyễn
Vi Khải, vào Đảng năm 1974,
nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, 40
tuổi đảng, Hà Nội.
49. Cao
Lập, vào Đảng năm 1974, nguyên
Bí thư Đảng ủy ngành Văn hóa -Thông tin TP. Hồ Chí Minh.
50. Lê
Thân, vào Đảng năm 1975, cựu tù
chính trị Côn Đảo, nguyên Tổng Giám đốc Liên doanh SG-Riversite,
TP. Hồ Chí Minh.
51. Ngô
Minh, vào Đảng năm 1975, nhà
báo, nhà văn, TP. Huế.
52. Trần
Kinh Nghị, vào Đảng năm 1976,
cán bộ Ngoại giao về hưu, Hà Nội.
53. Hồ
An, vào Đảng năm 1979, nhà báo,
TP. Hồ Chí Minh.
54. Đoàn
Văn Phương, vào Đảng năm 1979,
nguyên chiến sĩ thuộc Ban Giao lưu trung ương Cục, TP. Hồ Chí
Minh.
55. Hồ
Uy Liêm, vào Đảng năm 1980,
nguyên Quyền Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật
Việt Nam, Hà Nội.
56. Trần
Đ́nh Sử, vào Đảng năm 1986,
Giáo sư Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
57. Lê
Văn Luyến, vào Đảng năm 1987,
nguyên cán bộ thuộc Ban Tuyên huấn trung ương Cục Miền Nam, TP.
Hồ Chí Minh.
58. Nguyễn
Gia Hảo, vào Đảng năm 1988,
nguyên thành viên Tổ tư vấn của Thủ Tướng Vơ Văn Kiệt, Hà Nội.
59. Phạm
Chi Lan, vào Đảng năm 1989,
nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà
Nội.
60. Đào
Tiến Thi, vào Đảng năm 1997,
Thạc sĩ, Ủy viên Ban chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
61. Nguyễn
Nguyên B́nh, vào Đảng năm 1996,
Trung tá, cựu chiến binh, Hà Nội.