CÁI “MỘT” TRONG CAO ĐÀI &
CÁI “MỘT” TRONG TÂM THỨC
Từ Chơn
Những cách tiếp cận Cao Đài Giáo
Hệ thống tư tưởng Cao Đài Giáo phức tạp đến mức một người b́nh
thường bỏ ra cả cuộc đời nghiên cứu, tu tập cũng chỉ như bơi
trong một cái vịnh nhỏ. Có lẽ, người ấy không biết bên ngoài cái
vịnh bé tí kia là đại dương, sóng cả gào thét trùng trùng. Đó
cũng là một trong những lư do khiến cho tôn giáo Cao Đài bị phân
hóa ngay từ thời kỳ đầu mở đạo.
Ngoại trừ các bậc tiền bối sống chết với đạo ra, những người
khác tiếp cận hệ tư tưởng này giống như những người mù đứng
trước con voi. Họ sờ soạng voi, rồi dù chỉ tóm lấy được cái tai
hoặc cái ṿi voi ǵ đó, nhưng họ cứ tưởng rằng ḿnh đă biết rơ
về loài voi! Cứ thế, họ khư khư ôm riết lấy ư tưởng đó, cương
quyết không chấp nhận những cái mà bạn của họ chộp được! Hệ quả
hết sức oái oăm: Cao Đài là một tôn giáo có tôn chỉ kêu gọi đoàn
kết và dung hợp, nhưng trong nội bộ, hạt mầm chia rẽ, chống đối
lại có thể nhanh chóng bám rễ rồi vươn lên thành cổ thụ. Vậy mà
hiện nay, vẫn c̣n một số người cổ vơ cho t́nh trạng chia rẽ này,
bảo rằng Cao Đài này tịnh luyện, Cao Đài kia phổ độ. Điều đó
cũng giống như chuyện một kẻ quê mùa kia mua b́nh hoa về, đập
vỡ, dùng keo gắn lại rồi bảo rằng b́nh như vậy mới quí!!!
Có lẽ người ta đă quên một điều rất cơ bản là: muốn có được tư
tưởng dung hợp mọi tôn giáo, th́ điều cần phải có và ắt phải có
là một đầu óc mở rộng không một bợn định kiến. Không được phép
ngộ nhận đáng tiếc rằng những điều cá nhân ḿnh hiểu là “chơn
truyền” c̣n điều người khác hiểu là “sái chơn truyền”!
Đức Chí Tôn lập ra một tôn giáo mới để dung ḥa các tôn giáo cũ
chứ không phải tạo ra một thực thể khác cô lập hơn, gây phức tạp
thêm cho bức tranh tôn giáo ở địa cầu 68 vốn đă chia rẽ cùng
cực.
Cũng có thể người ta không đủ tỉnh táo để nhận ra khác biệt giữa
những hệ tư tưởng cũng giống như chuyện các cụ già cảm động khi
xem tuồng hát bội, trái lại giới trẻ chỉ rung động khi xem phim
t́nh yêu “Hàn Quốc”!
Thật ra, có rất nhiều cách để tiếp cận một vấn đề. Điều cần làm
là hăy kiên nhẫn, b́nh tĩnh và rộng mở để theo dơi kết quả của
những cách tiếp cận đó. Muốn băng ngang một khu rừng, có thể
dùng sức người mở một đường ṃn, cũng có thể dùng xe ủi, tùy
theo điều kiện hiện có. Vậy th́ cứ tiến lên, xông vào rừng đi,
chứ đừng đứng ở b́a rừng mà chỉ trích người khác là mở đường ṃn
như thế lâu lắm; hoặc dùng xe ủi tốn kém lắm! Trong tôn giáo,
hành động đi qua cánh rừng quan trọng hơn phương tiện mở đường
và kết quả cũng không phụ thuộc vào phương tiện.
Đối với hệ tư tưởng Cao Đài, có thể tiến vào bằng nhiều phương
pháp mà loài người đă dùng từ lâu:
- Có thể đi vào bằng con
đường nghiên cứu thần học. Tức là t́m hiểu nguồn gốc của Đức
Chí Tôn Thượng Đế và triều nghi của Ngài, suy tưởng cho thấu đáo
những nguyên tắc Ngài điều hành vũ trụ hoặc trả lời câu hỏi về
mối quan hệ giữa Ngài và nhân loại.
- Cũng có thể dùng triết
học đào sâu, phân tích t́m câu trả lời cho những câu hỏi cổ
xưa nhất nhưng không kém phần hóc búa nhất: Có Thượng Đế hiện
hữu hay không? Con người có linh hồn không? Con người đi về đâu
sau khi chết?
- Thậm chí có thể dùng
kinh tế học để nghiền ngẫm bộ máy điều hành vô cùng tinh xảo
của Cao Đài.
- Nếu không biết hay không muốn dùng bất cứ một phương pháp nào
hết th́ sao? Th́ đến với
Cao Đài bằng một tấm ḷng vậy. Nhưng tấm ḷng ấy đừng quá
khắt khe, quá sẵn sàng tự vệ đến độ công kích ngay những ư tưởng
nào khác có dấu hiệu “không-giống-điều-ḿnh-đă-biết”. Nói cách
khác, hăy dụng một tấm ḷng biết “dựa-cột-mà-nghe” để suy ngẫm
những điều chưa biết. Chớ vội kết luận “Đúng” hay “Sai”, bởi v́
đối với những người thật tâm học đạo, th́ kết luận một quan điểm
“Đúng” hoặc “Sai” là một việc làm quan trọng c̣n hơn cả sinh
mạng của chính ḿnh!
Nói tóm lại, bằng một phương thức nào đó: thần học, triết học
hay kinh tế học, người tu tập có thể thu được những kết quả nhất
định. Rồi từ những kết quả đó, người học đạo sẽ tiếp tục đi vào
những ư tưởng tinh tế hơn cho đến khi đạt được chân lư (tức đạt
pháp).
Điều cần khắc ghi trong ḷng người tu học là: nếu thật ḷng muốn
dấn bước trên con đường vạn dặm t́m chân lư, th́ không có thời
gian đâu mà dừng lại để so sánh ai đi chậm ai đi nhanh, hoặc chỉ
trích, “chỉnh sửa” người khác, hoặc lập ra thêm một “nền đạo Cao
Đài mới nữa”! “Hăy đi, đi
măi bằng một tấm ḷng rộng mở và rực lửa yêu thương”, đó là
nguyên tắc của Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống mà cũng là lời
nhắc nhở cho con cái của Đức Chí Tôn trên đường trở về hiệp một
cùng Ngài.
Tiếp cận Cao Đài Giáo bằng tâm lư học
Cũng như phần lớn các tôn giáo từ cổ chí kim, đối tượng của hệ
thống tư tưởng Cao Đài Giáo là con người. Tiên đề
“Vạn linh thống khổ v́
ngập ch́m trong tối tăm tội lỗi, nên Đức Chí Tôn Thượng Đế mở
đạo lần thứ ba để cứu rỗi” cho phép suy ra một định hướng
quan trọng. Đó là hệ tư tưởng Cao Đài có
mục đích giải thoát con
người khỏi mọi niềm đau nhân thế.
Nhưng Cao Đài không cứu con người giống như trực thăng
kéo người bị nạn ra khỏi chỗ nguy hiểm. Con người cũng phải vận
động cho phù hợp theo nguyên tắc “Trời Người Hiệp Một”. Vậy,
người học đạo vận động thế nào? Bước khởi đầu cơ bản là: đọc
thánh ngôn và làm theo những lời dạy đó.
Vấn đề là thánh ngôn và các biểu tượng của Cao Đài đôi khi rất
khó hiểu, cần chú giải thêm. Đă có nhiều bậc tiền bối chú giải
thánh ngôn cũng như các biểu tượng của Cao Đài Giáo thông qua
nhiều quan điểm khác nhau. Không những thế, hiện nay và trong
tương lai sẽ có nhiều bậc trí thức tiếp tục làm điều đó không
ngưng nghỉ. Người th́ dùng Dịch Lư của triết học phương đông,
người th́ dùng Toán Học Nhị Phân của văn minh phương tây. Dĩ
nhiên, mỗi phương pháp đều đem lại cho chúng ta một số kết quả
nhất định, tùy theo tŕnh độ kỹ thuật của người phân tích cũng
như người tiếp nhận. Cũng nên để ư rằng chính
tính chất đa nguyên tôn
giáo (Religious Pluralism) của triết lư Cao Đài đă phần nào
tạo điều kiện cho một số người, hoặc vô ư thức hoặc cố t́nh lợi
dụng hay cũng có thể do tŕnh độ hiểu biết thấp kém, có thể tạo
ra cái-hiện-tượng-gọi-là-“chi-phái”, vốn đă khiến cho những tín
đồ thuần thành nhức nhối từ khi mở đạo đến nay.
Bây giờ, trong giới hạn nhỏ bé của bài viết này, mời các bạn đạo
đi vào Cao Đài Giáo bằng một con đường khác với những con đường
mà các bạn đă từng đi:
con đường phân tâm học. Phân tâm học là lư thuyết nhằm phân
tích tâm lư của con người để phục vụ cho một mục tiêu nào đó. Ví
dụ như nhà phân tâm học người Áo Sigmund Freud (1856-1939), rất
nổi tiếng của thế kỷ 20, đưa ra những phân tích tâm lư con người
để trị bệnh rối loạn tâm thần. C̣n chúng ta,
tín đồ Cao Đài, sẽ dùng
phân tâm học để t́m đường thoát khổ.
Chọn phân tâm học không phải v́ hệ luận lư này đúng hơn hay lư
thú hơn những cách phân tích khác, mà để chứng minh rằng hệ
thống tư tưởng Cao Đài Giáo rất phong phú. Bằng mọi cách phân
tích sẵn có hoặc sẽ có, ai cũng có thể đi vào trọng tâm của hệ
tư tưởng này và thu được những lợi ích về mặt tinh thần cho bản
thân. Xin những vị thích hiểu mọi thứ bằng nghĩa đen của từ điển
hay dễ dị ứng với cách dùng từ khác với Thánh Ngôn Hiệp Tuyển
lưu ư! Dù có dùng một hệ thống phân tích khác, nhưng những lời
bàn luận ở đây vẫn “tùng thị pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ”, không đi
ra ngoài Tân Luật Pháp Chánh Truyền, Ngũ Giới Cấm và Tứ Đại Điều
Qui. Tác giả cũng không có ư định tạo ra một điều ǵ mới mẻ đến
mức độ …nảy sinh thêm “một-chi-phái-mới” đâu!
Bản chất tâm lư của con người
Muốn dựa vào lư thuyết Cao Đài để phân tích tâm lư con người,
trước hết cần phải thống nhất một số quan điểm dùng làm tiên đề
cho những lư luận kế tiếp.
- Một, t́nh cảm của
con người trong kiếp sống là một hỗn hợp buồn, thương, giận,
ghét, vv… Bản chất của con người là luôn luôn có khuynh hướng
t́m đến niềm vui và tránh xa đau khổ. Ư chí này không ngừng chi
phối mọi hành vi con người từ lúc sinh ra đến lúc chết đi.
- Hai, lời dạy của
Đức Chí Tôn Thượng Đế trong Cao Đài là những hướng dẫn giúp cho
con người t́m đường thoát khỏi những khổ đau trần tục, t́m ra
hạnh phúc chân thật.
- Ba, những lời dạy
này đều hàm chứa những phương pháp mà một người b́nh thường có
thể thực hiện được trong thực tế đời sống.
- Bốn, nguyên tắc
“Thầy là Các Con, Các Con là Thầy” giúp suy ra được ngôn ngữ
miêu tả Đức Chí Tôn cũng miêu tả những ǵ có trong bản thân một
con người.
Bây giờ, mời các bạn đạo đọc lại thánh ngôn sau đây:
“Khi chưa có chi trong càn khôn thế giới th́ khí Hư Vô sinh ra
có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực. Thầy phân Thái Cực ra
Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái,
Bát Quái biến hóa vô cùng mới lập ra càn khôn thế giới”.
Có thể chia thánh ngôn ra làm hai phần:
Phần thứ nhất:
Khi chưa có chi trong càn khôn thế giới th́ khí Hư Vô sinh ra có
một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực. Lúc này, chỉ có Đức Chí
Tôn Thượng Đế và ngôi Thái Cực. Thế giới chưa sinh ra, con người
chưa xuất hiện, chưa có những t́nh cảm buồn vui giận ghét, và dĩ
nhiên không có đau khổ. Phần này được gọi là Thái Cực hay Nhất
Nguyên (tức là Cái Một).
Phần thứ hai:
Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng,
Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng mới lập ra càn
khôn thế giới. Trong phần này có thế giới sinh ra, con người
xuất hiện cùng với những t́nh cảm buồn vui giận ghét vốn là
nguồn gốc của đau khổ. Phần này gọi là Lưỡng Nghi hay Nhị Nguyên
(tức là Phân Hai).
Thánh ngôn chúng ta vừa đọc mô tả tiến tŕnh lập ra một thế giới
của Đức Chí Tôn Thượng Đế. Dựa vào tiên đề số bốn, có thể xem
tiến tŕnh này tương đương với tiến tŕnh một tư tưởng khởi phát
trong tâm thức của con người. Hai giai đoạn trong thánh ngôn
tương đương với hai trạng thái tâm thức của một con người b́nh
thường. Trong trạng thái đầu tiên, chưa có tư tưởng phát sinh.
Lúc đó con người chỉ có linh hồn (Đức Chí Tôn ) và quyền lực của
linh hồn (ngôi Thái Cực). Trạng thái thứ nh́ là tư tưởng phát
khởi, sinh ra các loại t́nh cảm, rồi đi đến kết quả là đau khổ
hoặc hạnh phúc (thường th́ đau khổ nhiều hơn!). Mỗi một tư tưởng
đều khởi đi từ kết quả đối đăi của hai phạm trù Đúng-Sai,
Có-Không, Thiện-Ác (phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi). Hai phạm trù
này tác động qua lại để tiếp tục sinh ra những trạng thái t́nh
cảm khác của con người (Lưỡng Nghi phân Tứ Tượng, Tứ Tượng biến
Bát Quái). Và cứ như thế, các trạng thái t́nh cảm của con người
sẽ được sản sinh vô tận (Bát Quái biến hóa vô cùng mới lập ra
càn khôn thế giới).
Đức Chí Tôn lập ra vô số thế giới bằng công thức này, và tư
tưởng của chúng ta phát sinh hàng vạn lần trong cuộc sống hằng
ngày cũng theo tŕnh tự đó. Cứ mỗi lần chúng ta nh́n thấy một
vật thể hoặc định làm điều ǵ, tiến tŕnh tư tưởng liền phát
khởi nhanh như chớp. Những tư tưởng này nối tiếp nhau, hoặc có
khi xen lẫn vào nhau rất phức tạp. Cứ xét lại bản thân ḿnh
chúng ta sẽ thấy quá tŕnh này diễn ra đúng y như vậy. Ví dụ,
khi chúng ta được mời một món ăn, ngay lập tức tâm thức sẽ đưa
ra hai chọn lựa: ăn hoặc không ăn món ăn đó (thái cực sinh lưỡng
nghi). Nếu sự chọn lựa không dễ dàng và chúng ta c̣n do dự, tâm
thức sẽ đưa ra bốn chọn lựa: ăn, không ăn, nửa muốn ăn nửa không
muốn ăn và không chọn lựa ǵ cả (lưỡng nghi phân tứ tượng). Rơ
ràng, tư tưởng luôn luôn vận động theo đúng qui luật lập ra thế
giới của Thượng Đế. Qui luật này c̣n thấy rơ trong lănh vực điện
toán (computer) hiện đại nữa.
Khi phân tích chi tiết th́ chúng ta biết tiến tŕnh tư tưởng
trải qua những giai đoạn như thế. Nhưng trên thực tế tiến tŕnh
này quá nhanh; nhanh đến mức chúng ta chỉ biết ḿnh đă tư tưởng
khi quá tŕnh tư tưởng đó kết thúc. Điều quan trọng nữa là tiến
tŕnh này chỉ đi theo một chiều duy nhất: từ Thái Cực sang Lưỡng
Nghi, tiếp theo là Tứ Tượng rồi Bát Quái và tiến tới vô cùng,
chứ không bao giờ đi theo chiều ngược lại. Ngoài ra, tiến tŕnh
này có thể ngưng lại nếu giai đoạn tư tưởng đó đáp ứng được yêu
cầu của người tư tưởng hoặc kết thúc bằng một hành động.
Đạt “cái một” trong tâm thức
Phần lớn các hành động đều có ư thức. Chúng ta suy nghĩ, lên kế
hoạch, tính toán trước khi nấu một món ăn, trước khi đến sở làm,
hoặc trước khi đánh máy một văn bản. Và mỗi khi suy nghĩ, tư
tưởng đều vận động theo đúng qui luật nói trên. Nói khác đi,
thông thường con người chúng ta sống trong thế giới Nhị Nguyên,
hay c̣n gọi là thế giới Phân Hai, nơi mà mọi suy tưởng đều khởi
đi từ Lưỡng Nghi, Đúng-Sai, Thiện-Ác.
Tuy nhiên cũng có những lúc chúng ta hành động thoát ra ngoài
tiến tŕnh đó. Ví dụ khi đứng trước một khung cảnh thiên nhiên
hùng vĩ, chúng ta cảm thấy một niềm vui nhẹ nhàng lan tỏa trong
tâm trí. Ngay trong giây phút mong manh đó, tiến tŕnh suy nghĩ
tạm ngưng, chúng ta chỉ c̣n thấy ḿnh ch́m đắm trong một cơi
giới thoát trần, tạm thời quên đi những gian khổ khó khăn trong
cuộc sống thường nhật. Rơ ràng trong giây phút ấy, tư tưởng
không phát sinh, do đó hoàn toàn không có đau khổ. Đó chính
là chút hé lộ của thế giới Nhất Nguyên, nơi tư tưởng vẫn c̣n nằm
trong chiếc nôi Thái Cực, c̣n gọi là cơi giới của những người
Đắc Nhất (tức là đạt được Cái Một).
Vậy, vấn đề đặt ra là
chúng ta có thể sinh sống, làm việc b́nh thường như mọi ngày mà
vẫn thoát ra ngoài tiến tŕnh tư tưởng Nhị Nguyên, tức là lúc
nào cũng đạt được Cái Một, không? Nếu được như thế, th́ toàn
cuộc sống chúng ta sẽ ngập tràn niềm vui, hạnh phúc và nói theo
người xưa là chúng ta đă thành Thần Tiên tại thế!
Các bạn đạo cũng đă biết rằng người xưa từ bỏ của cải vật chất
thế gian, t́m đến nơi núi cao rừng thẳm để ngồi thiền, tĩnh tâm.
Cao Đài gọi là luyện Tam Bửu, hay hiệp nhất Tinh, Khí, Thần. Mục
đích của người luyện đạo là đón cho được cái trạng thái trước
khi có tư tưởng sinh ra.
Sở dĩ phải tuyệt đối tĩnh tâm là v́ tư tưởng sinh ra rất nhanh,
khoảnh khắc trước tư tưởng gần như không thể nắm bắt được. Nhưng
nếu nắm bắt được, con người sẽ có cơ hội thoát ra ngoài ṿng đau
khổ. Trong trạng thái không đau khổ đó, sức mạnh của Thái
Cực sẽ giúp con người nổ bùng ánh sáng Trí Huệ - nói theo thuật
ngữ Cao Đài là mở Thiên Nhăn nh́n thẳng vào Tam Thập Lục Thiên,
Tam Thiên Thế Giới.
Đây là một trạng thái khó nắm bắt và không thể diễn tả bằng ngôn
ngữ thông thường. Thế nên ngôn từ mà người xưa dùng để mô tả đôi
khi rất khó hiểu. Thí dụ như đạt được “Chân Không”, “Nhất
Nguyên”, “Bất Nhị”, “Chẳng phải hai, chẳng phải một”, “Phản bổn
hườn nguyên”, “Đắc Nhất”, “Giác Ngộ”, “A Nậu Đa La Tam Diệu Tam
Bồ Đề”… Tất cả những ngôn
từ ấy chỉ nhằm diễn tả một điều là sống trong trạng thái trước
khi tư tưởng phát sinh, nghĩa là đạt được CÁI MỘT trong tâm thức
của chính ḿnh.
Từ Chơn
November 15, 2008