Matthieu Ricard -
ĂN CHAY V̀ L̉NG TỪ BI HAY V̀ TÔN GIÁO
Hoàng Phong chuyển
ngữ
LTS:
Dưới đây là cuộc phỏng vấn nhà sư người Pháp Matthieu Ricard do
nữ kư giả Elisabeth Marshall thực hiện. Nguyên tựa đề là "Làm
thế nào có thể vừa quảng bá ḷng từ bi vừa giết súc vật để ăn",
được trích ra từ một câu hỏi trong bài phỏng vấn này, xét thấy
không phù hợp với hai chữ "từ bi" nên chúng tôi đổi lại tựa đề
như trên. Chúng tôi giới thiệu đến độc giả - những người ăn chay
10 ngày hoặc chưa ăn chay - bài phỏng vấn này.BBT
Nhà sư Matthieu Ricard
Lời phát biểu trên đây của nhà sư người Pháp Matthieu Ricard
cũng là tựa của một bài phỏng vấn ông do tập san Thiên Chúa
Giáo La Vie (Sự Sống)
thực hiện ngày 07 tháng 10 năm 2014. Nhân ngày Quốc Tế Thực Phẩm
16 tháng 10 vừa qua, các cơ quan truyền thông khắp thế giới thi
nhau đưa ra các quan điểm về vấn đề trên đây, và tập san La
Vie cũng đă phát hành một số đặc biệt với chủ đề ăn chay,
trong đó có bài phỏng vấn nhà sư Matthieu Ricard. Bài phỏng vấn
này cũng đă được trang web Phật Giáo Buddhachannel giới
thiệu:
http://www.buddhachannel.tv/portail/spip.php?article23824.
Quyển sách Bênh vực cho loài thú
vật
Quyển
sách mang tựa đề Bênh
vực cho lư tưởng vị tha (Plaidoyer
pour l' Altruisme, nxb Nil Eds, 2013, 917 tr.) của nhà sư
Matthieu Ricard phát hành ngày 18 tháng 9, 2013 đă gây ra một
tiếng vang rất lớn. Ngày 03 tháng 10, 2014 ông lại cho phát hành
thêm một quyển sách khác mang tựa Bênh vực cho loài thú vật (Pladoyer pour les animaux, nxb Allary Eds, 2014, 370 tr.). Lợi
nhuận của tất cả các sách của ông từ trước đến nay đều được sung
vào quỹ từ thiện của tổ chức Karuna Schechen do ông sáng lập
nhằm xây dựng và điều hành nhiều bệnh viện, trường học, viện mồ
côi,... tại nhiều nơi trong vùng bắc Ấn và xứ Nepal. Các sách
của ông cũng được đưa lên mạng và mọi người có thể tải xuống
miễn phí. Riêng phần ḿnh th́ ông cũng từng cho biết là mỗi ngày
ông chỉ cần vài Âu kim cho việc ẩm thực là cũng đủ.
Là một người tu hành Phật Giáo, ông ăn chay từ 47 năm nay. Trong
quyển sách Bênh vực cho loài thú vật ông
không ngần ngại lên án các ḷ sát sinh, các kỹ thuật săn bắt và
chăn nuôi thật quy mô và khoa học, tất cả đă tạo ra không biết
bao nhiêu đau thương cho loài súc vật. Mỗi khi trông thấy chúng
ta vuốt ve các con chó hay các con mèo th́ ông thường tự hỏi tại
sao ḷng từ bi ấy của chúng ta lại vụt biến mất đi mỗi khi chúng
ta nh́n thấy những miếng thịt bày ra trong đĩa thức ăn của ḿnh.
Thật vậy, trong cuộc sống thường nhật nào có mấy khi mà chúng ta
ư thức được thái độ mâu thuẫn ấy của chính ḿnh?
Dưới đây là bản dịch cuộc phỏng vấn nhà sư Matthieu Ricard do nữ
kư giả Elisabeth Marshall thực hiện tại một quán ăn chay ở thành
phố Bruxelles nước Bỉ.
LÀM THẾ NÀO CÓ THỂ VỪA QUẢNG BÁ L̉NG TỪ BI
LẠI VỪA GIẾT SÚC VẬT ĐỂ ĂN
(Comment prêcher la compassion et tuer pour manger)
Matthieu Ricard
- Mọi người đều biết ông là một người thật nhân từ, thế nhưng v́
lư do nào mà hôm nay ông lại cho thấy ḿnh c̣n là một người bạn
của loài súc vật?
- Thái độ đó không nhất thiết phát sinh từ sự yêu quư súc vật
quá đáng, mà đúng hơn là một cung cách hành xử khi nào đă ư thức
được các mối dây liên hệ giữa chúng ta và các chúng sinh có giác
cảm khác, và nhận thấy được những sự khổ đau mà chính chúng ta
đă gây ra cho chúng. 60 tỉ sinh vật bị sát hại hàng năm trên
hành tinh này. Con người đă biến súc vật thành những thứ hàng
hóa tiêu dùng, và xem chúng là những bộ máy cơ khí sản xuất các
khúc xúc xích đủ loại. Thật ra th́ đấy cũng chỉ là cách mang lại
tai hại cho tất cả, trước hết là cho loài súc vật và sau đó là
cho cả loài người chúng ta. Đấy là cách mà chúng ta tự nghiền
nát lương tâm đạo đức của ḿnh, làm phương hại đến sức khỏe của
ḿnh và hủy hoại cả môi trường sống trong tương lai.
Chim Limosa lapponica
Chúng ta từng đạt được thật nhiều tiến bộ quan trọng trên phương
diện nhân quyền, thế nhưng trên một b́nh diện khác th́ chúng ta
lại biến súc vật thành những món hàng hóa tiêu dùng.
Chúng ta thường quên mất là súc vật cũng biết đau đớn và sợ hăi, và
chúng cũng có quyền được sống như chính chúng ta. Tôn
trọng quyền hạn đó không phải là một h́nh thức "nhân phẩm hóa"
súc vật mà chỉ là một cách trải rộng ḷng thương cảm của ḿnh
đến tất cả chúng sinh. Mỗi lần nghĩ đến loài chim bargerousse(tên
khoa học là Limosa lapponica, tiếng Anh là bar-tailled godwet,là
một loài chim di trú,sống trong các vùng cỏ hoang bắc
cực và bay đến các vùng Á Châu, Úc Châu và Phi Châu để tránh mùa
đông) có thể bay xa hàng 10.000 cây số bằng cách định hướng
nhờ vào vị trí của các v́ sao trên trời, và trong khi đó th́ tôi
vẫn cứ thường hay đi lạc trong các đường phố Paris, th́ tôi lại
hiểu rằng loài chim ấy có
những phẩm năng mà tôi không hề có được. V́ thế thiết nghĩ đôi
khi chúng ta cũng nên khiêm nhường một chút!
- Con người từ nguyên thủy không ăn thịt. Vậy có phải là ông chủ
trương nên quay về với bối cảnh của các thời kỳ sơ khai với các
mối tương quan khác hơn giữa con người và muông thú: có nghĩa là
trở về với lối sống bằng cách nhặt hái hoa quả, trước khi chuyển
sang cách sống bằng chăn nuôi hay không?
- Đối với giống người Australopithecus (người tiền sử sống
cách nay từ 4,5 đến 1 triệu năm trước thời hiện đại) th́ 83%
thức ăn của họ là hoa quả. Không mấy khi họ ăn thịt, các trường
hợp này thật hiếm hoi và chỉ xảy ra vào những dịp khi họ t́m
thấy xác chết của một con vật. Tiếp theo đó là một thời kỳ thật
dài của giống người Neanderthal (sống cách nay khoảng từ
250.000 năm đến 28.000 năm) chuyên ăn thịt. Sau đó con người
bắt đầu sống định cư: canh nông và chăn nuôi phát triển. Gần đây
hơn, tức là cách nay khoảng từ 3.000 đến 4.000 năm, con người
bắt đầu thuần hóa thú rừng để biến chúng thành gia súc: chẳng
hạn như chó sói, ngựa, dê và sau đó là mèo ở Ai Cập. Giai đoạn
biến thú rừng thành gia súc đă làm thay đổi hẳn mối tương quan
giữa con người và súc vật. Thật hết sức lạ lùng, cũng vào thời
kỳ này đă phát sinh ra chế độ nô lệ trong vùng lănh thổ của dân
tộc Samur (sống cách nay vào khoảng 4.000 đến 3.000 năm trước
Tây Lịch trong một vùng nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrate
thưộc lănh thổ Iraq ngày nay)! Các biến chuyển trên đây đă
làm nảy sinh ra ư nghĩ cho rằng con người có quyền khai thác các
chúng sinh khác (súc vật và cả con người) nhằm mang lại
lợi nhuận cho ḿnh. Đấy chính là quá tŕnh làm hạ phẩm giá kẻ
khác (con người và súc vật).
- Phải chăng từ trước nay t́nh trạng đó chưa hề xảy ra trong các
xă hội sơ khai?
- Tất nhiên là không. Những người tiền sử kể cả những người
thuộc các bộ lạc sinh sống bằng cách săn bắt và nhặt hái c̣n tồn
tại đến nay trong các vùng Amazon (các vùng rừng rậm Nam Mỹ) tuy
cho rằng súc vật khác với họ, nhưng không hề xem chúng là thấp
kém hơn họ. Hơn nữa đối với họ thú vật c̣n là hiện thân của các
loài ma quỷ mà họ khiếp sợ, hoặc đội lốt các thần linh mà họ tôn
thờ, lư do là v́ các con thú ấy có những sức mạnh mà họ không
sao b́ kịp. Chúng ta đều biết là các lực sĩ thượng thặng giỏi
lắm cũng chỉ lội nhanh bằng một con cá chép, hoặc chạy nhanh
bằng một con mèo là cùng... Con người sinh sống trong các tập
thể xă hội biến thú rừng thành gia súc đă gây ra không biết bao
nhiêu khổ đau cho chúng. Nhằm bảo đảm sự an toàn đạo đức cho
ḿnh và tránh các sự bất an trong tâm trí ḿnh, con người đă hạ
phẩm giá súc vật để biện minh cho cung cách hành xử ấy của ḿnh.
Họ đánh giá súc vật là những loài thấp kém và vô cảm hầu có thể
ăn thịt chúng một cách thản nhiên.
- Quan điểm ấy của ông có quá khắt khe đối với các triết gia Hy
Lạp và những người Thiên Chúa Giáo hay không, bởi v́ họ không hề
cảm thấy tội lỗi mỗi khi tạo ra khổ đau cho súc vật?
- Hầu hết các tôn giáo độc thần đều xem súc vật như một thứ tài
vật được tạo ra cho con người sử dụng vào việc ẩm thực hoặc tha
hồ khai thác: không ăn thịt súc vật là thái độ khinh thường tặng
phẩm mà Trời đă ban cho ḿnh. Tuy nhiên trong số họ cũng có
những người không ăn thịt, thế nhưng lại nêu lên các lư do chẳng
hạn như muốn giữ sự thanh đạm, hoặc e sợ bị trừng phạt, hoặc v́
thịt của một số loài vật nào đó bị ô nhiễm nên không được phép
ăn (người theo Thiên Chúa Giáo không ăn thịt vào ngày thứ
sáu, người theo Hồi Giáo không ăn thịt heo, người theo Ấn Giáo
không ăn thịt ḅ..., các hành động ấy chỉ mang ư nghĩa tôn giáo,
không phải v́ sự thúc đẩy của ḷng từ bi). Dầu sao trên
ḍng lịch sử cũng có những trường hợp ngoại lệ nói lên được ḷng
thương cảm đối với súc vật: chẳng hạn như đối với Thiên Chúa
Giáo th́ có Thánh Jean Chrysostome (St John Chrysostom) và
Thánh Jean-François d'Assise (St Francis of Assisi), và
vào các thời kỳ cổ đại của Hy Lạp th́ có Ovide và Plutarque
(Plutarch), là những người đă tích cực quảng bá việc ăn chay.
Théodore Monod (1902-2000, một nhà khoa học thiên nhiên nổi
tiếng của Pháp) thuật lại câu chuyện sau đây về một vị thầy
soufi (sufi) (một đường hướng tu tập mang tính cách thần bí
trong Hồi Giáo) người Ma-rốc - thật ra th́ cũng chỉ là một
trường hợp ngoại lệ đối với Hồi Giáo. Trong khi đang thuyết
giảng vị thầy này trông thấy một con chim sẻ từ tổ rơi xuống
đất, ông bèn sai các đồ đệ hăy nâng lấy kẻ mà ông xem như "đồng
loại" với ḿnh. Thiết nghĩ đối với thuật ngữ "đồng loại" trên
đây có lẽ ngoài ông ta ra chưa có một nhà nhân bản (humanist)
nào dám nói lên. Sau hết chúng ta cũng không nên quên là có 450
triệu người dân Ấn ăn chay, và đây cũng là một tập thể nhân loại
ăn chay đông đảo nhất thế giới, trong số họ dẫn đầu là những
người theo đạo Ja-in (Jainism/h́nh thành và phát triền cùng
một thời kỳ với Phật Giáo và cũng mang một vài đường nét giáo lư
gần với Phật Giáo), họ tuyệt đối tôn trọng tất cả mọi h́nh
thức của sự sống. Vào thế kỷ XVII chính những người du hành Tây
Phương lần đầu tiên đă khám phá ra nền văn minh biết kính trọng
súc vật của nước Ấn.
- Nhân danh nền đạo đức nào mà Phật Giáokhông
chấp nhận việc ăn thịt?
- Thật hết sức đơn giản, chỉ v́ ḷng từ bi.
Chúng ta không thể nuôi
sống ḿnh bằng sự đau đớn và cái chết của các sinh vật có giác
cảm khác. Trong một bài kinh Phật có một câu như sau:
"Ăn thịt là hủy hoại ḷng từ bi bao la". Dầu sao cũng có một vài
ngoại lệ khá tế nhị: chẳng hạn như đối với Phật Giáo Tiểu Thừa
(Theravada), người tu hành không được phép giết một con
vật để ăn, hoặc để cho người khác giết cho ḿnh ăn. Trong khi đó
đối với Phật Giáo Đại Thừa (Mahayana) th́ phải phát
nguyện ḷng từ bi một cách đích thật: tức không được phép biến
thân xác ḿnh thành một nghĩa trang. V́ thế các nhà sư Trung
Quốc đều nhất loạt ăn chay (bởi v́ hầu hết trong số họ đều tu
tập theo Phật Giáo Đại Thừa). Ở Tây Tạng vào các thời kỳ xa
xưa không có đường xá lưu thông, sữa và sữa chua chỉ đủ dùng
khoảng ba tháng trong năm, ngoài ra th́ chỉ có bột lúa mạch, bơ
và thịt khô: do đó việc ăn chay là cả một sự khổ hạnh! Ngày nay
việc nấu nướng trong các chùa chiền Tây Tạng trên đất Ấn không
c̣n dùng thịt nữa. Ở Nepal tôi lưu ngụ trong một tu viện gồm
khoảng 600 nhà sư, việc ăn chay không nhất thiết bắt buộc, thế
nhưng những người lo việc bếp núc không mua và cũng không sử
dụng thịt, với mục đích không tiếp tay vào việc buôn bán thịt.
Một nửa các nhà sư đă trở thành những người chay lạt.
- Phải chăng đấy cũng chính là sự lựa chọn của cá nhân ông?
- Đúng thế và cũng đă từ 47 năm nay rồi! Tất cả các vị thầy của
tôi cũng vậy. Đối với tôi điều ấy thật hết sức hiển nhiên, bởi
v́ làm thế nào lại có thể vừa quảng bá ḷng từ bi lại vừa giết
súc vật để ăn? Ngày nay khoa học đă chứng
minh cho thấy là việc ăn thịt không phải là một nhu cầu cần
thiết. Nhiều lực sĩ thế vận hội, chẳng hạn như lực sĩ
chạy bộ Carl Lewis không hề ăn thịt. Cho rằng phải hấp thụ các
chất đạm động vật th́ mới có thể sinh tồn được là một ư niệm sai
lầm. Ngoài ra tôi c̣n nhận thấy tuổi trẻ ngày nay cũng rất nhiệt
t́nh trong việc ăn chay với mục đích bảo vệ môi sinh. Bớt ăn
thịt không những chỉ v́ lư do đạo đức mà c̣n là một cách giữ ǵn
sức khỏe và làm giảm bớt sự biến đổi môi sinh. Xu hướng chung
ngày nay là bớt ăn thịt, tức có nghĩa là không cần phải ăn chay
một trăm phần trăm. Tôi xem xu hướng ấy là cả một sự tiến bộ của
nền văn minh con người. Cách nay 300 năm, người ta c̣n công khai
tra tấn người ở những nơi công cộng, hoặc kéo nhau đi xem hành
quyết vào các ngày chủ nhật, cứ tương tự như ngày nay rủ nhau đi
xem bóng đá. Quả là một cuộc cách mạng thật ngoạn mục trên
phương diện t́nh thương và sự kính trọng những sinh vật khác, và
xu hướng này vẫn c̣n tiếp tục. Ở Hoa Kỳ, quê hương của những kẻ
chăn ḅ (cowboys) và những tay thợ săn, chỉ có 4% dân
chúng là ăn chay, thế nhưng trong môi trường đại học số sinh
viên ăn chay lên đến 20%. Ở Pháp số người ăn chay ngang hàng với
số người săn bắn (săn bắn phải có giấy phép, đóng niên liễm,
rồi th́ thú săn, mùa săn, số thú bị giết... đều được nhà nước
quy định mỗi năm, do đó các con số thống kê rất chính xác).
- Phải chăng khái niệm cho rằng "chúng sinh có giác
cảm"* tất phải sớm được đưa vào Bộ Luật Dân Sự?
*(chúng sinh có giác cảm/êtres sensibles, êtres
animés/sentient being, living being, tiếng Phạn là satva hay
sattva, chữ sat hay satva trong tiếng Phạn có nghĩa là chúng
sinh/being hay là sự "hiện hữu"; tiếng Pa-li là satto hay satta
có nghĩa là "being creature" hay "satient being" là một thuật
ngữ chỉ chung súc vật và cả con người, thí dụ như chữ
bodhisattva là "người" bồ-tát hay là "người" giác ngộ. Kinh sách
gốc Hán ngữ dịch chữ sattva/satta là "chúng sinh hữu t́nh", cách
dịch này không được sát nghĩa lắm - nếu không muốn nói là sai
hay "vô nghĩa". Thí dụ một con sâu cảm nhận được sự đau đớn cũng
là một chúng sinh như chúng ta, nhưng không nhất thiết và bắt
buộc là nó cũng phải "hữu t́nh" như chính chúng ta. Các sinh vật
ở các mức độ tiến hóa thấp cũng cảm nhận được sự đau đớn dù
không đủ sức phát lộ được các xúc cảm bấn loạn tương tự như một
số các loài sinh vật ở các cấp bậc tiến hóa hơn. Ḷng từ bi Phật
Giáo phải trải rộng ra đối với tất cả chúng sinh, không cần phân
biệt là chúng có "hữu t́nh" hay không).
- Hầu hết các nước Âu Châu đă đưa khái niệm này (tức công
nhận "súc vật cảm nhận được sự đau đớn") vào các bộ luật của
họ. Điều này cho thấy rằng khoa học ngày nay đă chứng minh được
là thú vật cũng nhận biết được sự đau đớn. Đối với người Phần
Lan th́ súc vật c̣n hàm chứa cả tri thức (consciousness) nữa!
Ở Pháp ngày 14 tháng 4, 2014 vừa qua, Ủy ban Tư Pháp của Quốc
Hội đă thừa nhận súc vật được hưởng quy chế "chúng sinh mang khả
năng cảm nhận" (êtres vivants doués de sensibilité"/living
being endowed with sensitivity), điều đó cũng phù hợp với
quan điểm chung của đại đa số quần chúng trên đất Pháp ngày nay.
Thế nhưng trên thực tế vẫn chưa thấy một sắc luật nào được đưa
ra nhằm áp dụng quy chế ấy đối với súc vật. Lư do là các thủ tục
vận động trong chiều hướng này đều bị phe chống đối (bảo thủ)
t́m cách chận đứng... Tôi cảm thấy thật bàng hoàng trước t́nh
trạng đạo đức hết sức nghịch lư (giả dối) đó của xă hội
chúng ta (tức nước Pháp) đối với súc vật!
- Có phải chính ông đă từng nêu lên sự nhận xét là không mấy ai
ư thức được sự liên hệ giữa một miếng cốt-lét và những nỗi đớn
đau của một con bê hay không?
- Điều này cũng tương tự như một thứ bệnh tâm thần. Trong dân
chúng Pháp chỉ có 14% chống lại việc chăn nuôi súc vật để lấy
thịt, 65% cảm thấy xao động khi trông thấy cảnh mổ giết gia súc.
Các ḷ sát sinh được che dấu kín đáo! Chưa bao giờ cuốn phim
Terriens* nêu lên kỹ nghệ giết mổ súc vật trong các ḷ sát sinh
được tŕnh chiếu trên màn ảnh truyền h́nh, lư do là không muốn
làm cho các lứa tuổi c̣n quá trẻ phải bị "xao động".
* (Tựa tiếng Anh của bộ phim này là Earthlings, có nghĩa là
"Thế Gian" hay "Cơi Ta-bà", và cũng có thể dịch là "Con người
của thế gian này", là một bộ phim tài liệu của Mỹ do Shaun
Monson thực hiện năm 2005. Độc giả có thể xem trên Youtube:
Hàng trăm trang web trên khắp thế giới đă giới thiệu bộ phim này
với nhiều đoạn khác nhau).
Ngoài ra người ta c̣n nhận thấy 50% học sinh ở các các lớp tiểu
học tại thành phố Chicago (nơi
thực hiện cuộc thăm ḍ) không đủ sức h́nh dung được là
miếng thịt kẹp trong ổ bánh ḿ hamburger của chúng có liên hệ ǵ
với một con thú trên thực tế hay không. Miếng thịt ấy từ đâu mà
có? Trong các siêu thị! Trước khi đưa vào siêu th́ nó từ đâu ra?
Từ các cơ xưởng kỹ nghệ! Dù có giải thích cho chúng biết đấy là
thịt của một con vật th́ nhất định chúng sẽ không tin. Đấy chính
là t́nh trạng mâu thuẫn thật tiêu biểu của những con người sống
trong các xă hội tôn thờ thú vật trong nhà (chó,
mèo...), ḷng từ bi của họ sẽ biến mất ngay mỗi khi họ
trông thấy một đĩa thức ăn hiện ra trước mặt ḿnh. Trong năm vừa
qua có một người chơi tṛ ném mèo vào tường để quay phim. Giới
truyền thông làm ầm lên và nhiều người đă bày tỏ sự phẫn nộ của
ḿnh. Người ném con mèo vào tường bị đưa ra ṭa, con mèo được
cứu sống (chỉ bị găy
một chân), quả là một điều đáng mừng
(thật ra câu chuyện đă
xảy ra vào ngày 31 tháng giêng 2014 vừa qua tại miền nam nước
Pháp, 60.000 người kư tên bày tỏ sự bất nhẫn của ḿnh trên
Facebook. Ṭa án xử phạt người này một năm tù giam. Gần đây hơn
vào đầu tháng 5 vừa qua có một người giết một con mèo bằng cách
cho nó vào máy giặt nóng 40°C. Người này bị đưa ra ṭa và lănh
án 3 tháng tù giam, 1.300 Âu kim tiền phạt và 10 năm không được
nuôi súc vật trong nhà. Vậy chúng ta sẽ nghĩ ǵ khi trông thấy
nhan nhăn các quán "cầy tơ và tiểu hổ", tức là các quán thịt chó
và thịt mèo? Phải chăng đấy là cái đỉnh thấp nhất của trí tuệ
hay chăng?). Thế nhưng có được mấy ai cảm thấy xúc động
khi biết rằng trong cùng một ngày hôm ấy 500.000 con vật bị giết
trong các ḷ sát sinh - nhiều hôm riêng số heo bị giết cũng đă
lên đến 1.000 con mỗi giờ - với các phương tiện giết mổ thật vô
cùng tàn nhẫn.
- Vậy có một phương pháp chăn nuôi súc vật lấy thịt nào có thể
gọi là mang tính cách đạo đức hay không?
- Nhất định là có: một con ḅ mẹ cùng với ḅ con thong dong gặm
cỏ trên một cánh đồng của vùng Dordogne chẳng hạn (một vùng
thuộc tây nam nước Pháp, nơi có nhiều đồi và thung lũng),
như thế có phải là một ngh́n lần nhân đạo hơn là nhốt riêng một
con heo nái trong một chiếc chuồng làm bằng thanh sắt để nó khỏi
đè bẹp hai mươi lăm con heo con mới sinh? Đấy là cách phải chăn
nuôi gia súc để giết thịt, tương tự như nuôi các con vật yêu quư
trong nhà thế thôi (trong nguyên bản là "nuôi các con
Blanchette và Roussette để giết thịt". Blanchette và Roussette
là các tên gọi thông thường và dễ thương được dùng để đặt tên
cho các con vật nuôi trong nhà hay trong vườn để làm bạn với
người: chẳng hạn như mèo, thỏ, gà, dê con... Sở dĩ nêu lên các
chi tiết này là để cho thấy cách viết và diễn đạt của nhà sư
Matthieu Ricard đôi khi rất ư nhị, t́nh cảm và rất khó dịch.
Ngoài ra câu trả lời trên đây của ông cũng thật khéo léo và kín
đáo: có thể chăn nuôi súc vật để lấy thịt nhưng vẫn phải kính
trọng sự tự do và t́nh mẫu tử của chúng, và nhất là phải yêu
thương chúng như những con vật làm bạn với ḿnh trong nhà. Thế
nhưng khi đă yêu thương chúng và gọi chúng bằng những cái tên
thật dễ thương th́ làm thế nào lại có thể giết mổ chúng để
ăn?).
- Thế nhưng người ta vẫn có thể chống lại quan điểm ấy khi
cho rằng các công cuộc vận động nhằm bảo vệ nhân quyền mang tính
cách khẩn thiết hơn?
- Những kẻ nêu lên luận cứ ấy thường không hề tỏ ra tích cực
trong việc bảo vệ con người cũng như súc vật! Hiện nay tôi đang
tham gia vào khoảng 140 dự án nhân đạo, thế nhưng việc chăm lo
cho súc vật không hề làm cho tôi mất thêm một giây phút nào (chỉ
cần đơn giản ăn chay cũng đă là cách yêu thương và chăm lo cho
súc vật, nào có cần phải chạy ngược chạy xuôi đâu). Quả hết
sức lạ lùng mỗi khi nh́n vào lịch sử người ta đều nhận thấy
những người từng tranh đấu cho nhân quyền cũng là những người đă
đứng lên để bảo vệ súc vật. Chẳng phải Tolstoï (1828-1910,
đại văn hào người Nga), Shelley(1987-, nữ diễn viên màn
ảnh và hoa hậu trẻ của Mỹ năm 2004) và Théodore Monod là
những người ăn chay và rất nhiệt t́nh với lư tưởng bảo vệ súc
vật hay sao? Ḷng từ bi không có một biên giới nào cả! Nào có ai
ngăn cản được một người khi đă quyết tâm tự biến cải ḿnh để trở
thành một con người tốt đâu, và cũng chẳng có ai dám bảo rằng sự
quyết tâm ấy lại không phải là một cách biểu lộ cao quư nhất của
bản chất con người?